Báo cáo Giải pháp Vấn đề chung và riêng trong tìm hiểu văn bản
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Giải pháp Vấn đề chung và riêng trong tìm hiểu văn bản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo Giải pháp Vấn đề chung và riêng trong tìm hiểu văn bản
Giải pháp: Vấn đề chung và riêng trong tìm hiểu văn bản (Bài đã được đăng trên Thế giới trong ta CĐ 124/10-2012) A/ Đặt vấn đề: Xin được bắt đầu từ thực tế giảng dạy môn ngữ văn 9. Hiện nay, đi dự các tiết dạy ở trường rồi các chuyên đề cấp cụm trường cấp huyện, hội giảng các cấp, ai cũng nhận thấy việc đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện rõ nét và hiệu quả. Giáo viên thiết kế nhiều hoạt động và thực hiện các hoạt động đó bằng nhiều phương pháp. Từ việc tổ chức cho học sinh hoạt động độc lập đến việc cho các em trao đổi, thảo luận hợp tác theo nhóm, rồi sắm vai, diễn kịch, rồi tổ chức diễn đànTrên lớp chỉ cần vài thao tác nhỏ thầy cô giáo đã tạo được không khí tiết học cuốn hút học sinh vào bài. Nhất là với đối tượng là học sinh lớp 9 và nội dung môn ngữ văn 9. Với cách tổ chức tiết học như thế, học sinh sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động trong tiếp nhận, chiếm lĩnh kiến thức và có những sáng tạo trong bài viết. Có thể nói, ngoài nội dung chương trình SGK thì việc đổi mới phương pháp dạy học mang đến cho môn ngữ văn nói riêng và ngành giáo dục nói chung một luồng sinh khí mới. Các phương pháp dạy học đang được sử dụng phổ biến hiện nay là hiệu quả, phù hợp với mục tiêu giáo dục thời đại mới, phù hợp với xu thế xã hội hiện nay về tất cả các phương diện. Tuy nhiên, các tiết dạy đẫ được chuẩn bị công phu hay tiết dạy thường ngày vẫn cứ vấp phải những tồn tại để người dạy và người dự nuối tiếc: có thể băn khoăn về thời gian, băn khoăn về nội dung và cũng có thể băn khoăn suy ngẫm về tạo dựng không khí văn chương hoặc xử lý tình huống sư phạmCó rất nhiều những kết luận, song trong đó theo tôi việc đặt văn bản trong tổng thể kiến thức, vấn đề riêng- chung trong khai thác tác phẩm văn học là vô cùng quan trọng. Qua đó, thể hiện tài năng, tâm huyết của người thầy dạy văn ở góc độ rõ nhất. Giáo viên Ngữ văn thường nói với nhau về phong cách tác giả. Phong cách tác giả là điểm tới của bất cứ văn bản nào, bài viết của học sinh cũng phải tới được phong cách sáng tác của tác giả ở từng mức độ. Song nếu chỉ phân tích, mổ xẻ văn bản một cách hạn hẹp không thể tìm ra điều này hoặc có tìm ra cũng chỉ là gượng ép, áp đặt. Một vài dẫn chứng nghèo nàn không thể khái quát lên phong cách nhà văn. Ngược lại, khi dạy một văn bản mà dẫn chứng đưa từ ngoài vào một cách ồ ạt sẽ làm mờ nhạt nội dung cần đến. Để tìm hiểu một văn bản, theo tôi, ta cần xác định: - Yếu tố ngoài văn bản: hoàn cảnh xã hội, sự nghiệp tác giả, các yếu tố liên quan - Yếu tố trong văn bản: giá trị nội dung, nghệ thuật; thông điệp của tác giả Người Trung Hoa có quan điểm về nghệ thuật : Vẽ cây thấy rừng. Câu đó rất có giá trị. Dạy tìm hiểu văn bản mà người học chỉ thấy một văn bản đơn điệu 1 Chẳng ai có thể bắt chước được cách nói hồn nhiên như cỏ, như hoa của người nơi ấy. Thơ Y Phương cứ thế trôi đi, không cầu kỳ gọt giũa, không cố nắn cho mềm, không cố ép cho duyên. Tây Bắc là núi cao vực sâu, con người nơi đây nhiều khi có cái nhìn bạo liệt: Mùa hoa Mùa đàn bà Mặt đỏ phừng phừng Thừa sức vác ông chồng Chạy phăm phăm lên núi. (Mùa hoa) Thế đấy, Y Phương đâu phải là thứ hương rừng thoảng qua rồi tan đi trong sự vô cùng. Thơ ông là sự neo đậu, là cái lắng xuống nên không thể đọc nhanh. Những động tác đưa đẩy, phô trương, hoa mỹ hiếm khi xuất hiện trong trang viết của ông. Như cuộc sống, như hơi thở của núi đá, rừng cây, những câu thơ khoẻ khoắn cất lên từ nền đá vững chãi và thuần phác chinh phục bạn đọc. Trong thơ chứa đầy nội lực, giọng thơ cứ âm âm, trầm trầm như vọng ra từ hang đá. Y Phương viết nhiều về tình người và hồn đất. Quê hương Cao Bằng cứ mở mắt ra đã thấy núi đồi và núi ấy, thung ấy, dốc ấy tràn vào thơ ông như một lẽ đương nhiên ngay cả khi ông tâm tình thủ thỉ: Sớm mai con vào lớp ba Lớp ba đằng sau nhà ta Leo hết dốc là con tới lớp (Sớm mai con vào lớp ba) Hay: Ngọn gió nồm chảy qua đời xanh mướt Thung lũng như em chìm lặng yêu thương Rừng núi quê hương và tình cảm con người đậm đà, nồng hậu cứ quấn quýt, cứ hoà quyện đan xen không thể tách rời. Thơ Y Phương mang vẻ đẹp đặc trưng của con người vùng Tây Bắc tổ quốc, thơ giàu chất tạo hình với cách nói ví von qua hình ảnh cụ thể. Mỗi hình ảnh trong thơ mang theo cái thần, cái hồn vía có lúc mơ hồ, có khi rõ nét. Cảm hứng thơ chủ yêú là quê hương, là dân tộc, là “người đồng mình” trong cái lớn lao của tình yêu đất nước. Bài thơ Nói với con của Y Phương không quá nhiều chữ nghĩa nhưng có sức lắng đọng và lan toả. Thơ viết tự do với những câu dài ngắn khác nhau gợi ra sự hùng vĩ của thiên nhiên, sự phóng khoáng trong tâm hồn người miền ngược. Qua bài thơ ta thấy gần gũi hơn, yêu mến hơn mảnh đất Cao Bằng “gạo trắng nước trong” có những con người “tự đục đá kê cao quê hương”. Y Phương chỉ mượn lời nói với con để gợi về cội nguồn của mỗi con người. Ai cũng có tuổi ấu thơ. Tuổi ấu thơ gắn liền với mái ấm gia đình. Khung cảnh gia đình trong thơ Y Phương sao mà đáng yêu, đáng quý và chân thực đến thế: Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười. Qua câu thơ, người đọc hình dung về cuộc sống bình dị đời thường: Một gia đình hạnh phúc, con đang tập đi, một bước, một bước nữa trong sự yêu thương 3 lên từ đá núi, con cũng sẽ “không chê”, “không lo” cái gian nan cực nhọc của quê mình. Con sẽ sống xứng đáng như “người đồng mình” đã sống: Sống ngẩng cao đầu kiêu hãnh, góp sức mình xây dựng quê hương: Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục Quê hương và “người đồng mình ” liên tục xuất hiện trong lời dặn dò tâm sự của cha. Có gì đâu, người quê ta chỉ là “thô sơ da thịt”, không một chút màu mè, hoa mĩ. Bao thế hệ nối tiếp nhau, lao động cần cù sáng tạo “tự đục đá kê cao quê hương” làm đẹp thêm thuần phong mĩ tục ngàn đời. Cha nói với con để con tự hào về quê hương và tự tin “lên đường” sống đàng hoàng, không tự ti hèn kém . Về cuối bài, lời thơ vừa kiên quyết vừa tha thiết như nỗi lòng da diết của cha: Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con. Lời thơ khép lại, mà sự vang vọng, độ ấm nồng còn lan toả mãi. Cha nói với con về tình quê, tình người đơn sơ bình dị mà cao cả ân tình. Cha nói với con, cha truyền lửa cho con. Từ không gian hẹp là gia đình với đứa con chập chững bước đầu tiên đến một không gian rộng đầy dốc núi, suối, sông và con đường tít tắp là bức thông điệp vừa cụ thể vừa khái quát của Y Phương gửi cho thế hệ sau. Thơ Y Phương thường mở rộng theo lối đó, vì thế đọc thơ ông ta tìm thấy chính mình. Thơ Y Phương có chủ đề rất phong phú. Trên báo văn nghệ – số báo xuân 2007, có bài thơ “ Xanh mướt” nhà thơ đưa ta đến với với mùa yêu đương tình ái của xứ sở hoa đào. Đọc “Xanh mướt” giữa ngày xuân, ta ước ao một lần được lên miền ấy. Rất yêu mến thơ Y Phương, song tôi yêu nhất là những vần thơ Y Phương viết cho trẻ: Cha chỉ là nhà văn, mẹ con là nhà giáo Quanh năm chờ lương đong gạo Đong đếm từng ngày nhân nghĩa đủ cho con. Từ một ví dụ cụ thể là văn bản Nói với con ta mở rộng ra ở các văn bản khác khi khai thác tìm hiểu. Phải có những căn cứ, những dẫn chứng vừa đủ để khẳng định: - Thơ Nguyễn Duy giàu tính triết lí - Thơ Chính Hữu sâu lắng, trầm tư - Thơ Phạm Tiến Duật ồn ào, trẻ trung và tinh nghịch. - Thơ Thanh Hải ngọt ngào và mịn màng như nhung lụa. - Thơ Bằng Việt trong veo mặc dù có “khói hun nhèm mắt cháu” -.. Nghĩ là thế nhưng vấn đề không quá đơn giản. Đi tìm được phong cách nhà văn cần phải có vùng kiến thức phong phú, phải có chiều sâu trong việc xâu chuỗi 5 Nhận xét, đánh giá của hội đồng khoa học ngành giáo dục quỳnh phụ 7
File đính kèm:
- bao_cao_giai_phap_van_de_chung_va_rieng_trong_tim_hieu_van_b.doc