Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh khám phá Bản sắc vùng cao trong bài thơ "Nói với con" của nhà thơ Y Phương

pdf 30 trang sklop9 05/06/2024 780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh khám phá Bản sắc vùng cao trong bài thơ "Nói với con" của nhà thơ Y Phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh khám phá Bản sắc vùng cao trong bài thơ "Nói với con" của nhà thơ Y Phương

Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh khám phá Bản sắc vùng cao trong bài thơ "Nói với con" của nhà thơ Y Phương
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
GIÚP HỌC SINH KHÁM PHÁ BẢN SẮC VÙNG CAO 
TRONG BÀI THƠ “NÓI VỚI CON” CỦA NHÀ THƠ Y PHƯƠNG 
 trường, cũng như đã tham khảo những tài liệu hướng dẫn của NXBGD ban hànhTất 
cả đều có một điểm chung, đó là họ hơi nặng về những giá trị tư tưởng, những ý nghĩa 
giáo dục, trong khi đó những vẻ đẹp vô cùng đặc sắc của một áng thơ ca miền núi lại 
không được quan tâm đúng mực, mà theo tôi đó mới là những gì làm nên sức sống, 
làm nên một diện mạo đầy ấn tượng của bài thơ “Nói với con”. 
 Với những lí do trên, tôi xin đưa ra một số ý kiến trong việc dạy bài thơ “Nói với 
con”mà tôi đã trải nghiệm được trong quá trình giảng dạy và dự giờ của các đồng 
nghiệp. 
 Mượn lời của người cha nói với đứa con yêu dấu, bài thơ thể hiện tình cảm gia 
đình đầm ấm, nghĩa tình quê hương tha thiết ngọt ngào, là tiếng hát ngợi ca truyền 
thống, sức sống bền bỉ của dân tộc mình, để qua đó, dường như Y Phương muốn làm 
một cuộc sắp xếp hành trang cho con lên đường, bước vào đời. 
 Bài thơ không dài, chỉ với 28 câu thơ tự do, nhỏ xinh; hồn hậu trong cảm xúc; 
mạnh mẽ trong ý chí; ngọt ngào, rắn rỏi trong giọng điệu; gân guốc trong tư duy, cách 
xây dựng hình ảnhTất cả như bật ra từ vô thức, tất cả thật bình dị, chất phác như 
tâm hồn người Tày, như cuộc sống của quê hương nhà thơ vậy! 
 2. Bản sắc vùng cao trong bài thơ “Nói với con” 
 Đọc thơ Y Phương, người ta dễ bị hút hồn bởi bản sắc vùng cao rất riêng và đậm 
đà. Thật khó mà lí giải được một cách tường tận, rạch ròi rằng cái bản sắc ấy được thể 
hiện ở đâu, như thế nào, nhưng có một điều mà ai cũng cảm nhận được rằng: phải là 
một con người được sinh ra, lớn lên, được nuôi dưỡng bằng chính nguồn mạch của 
núi rừng mới cất lên được tiếng nói mang đầy âm hưởng của cuộc sống vùng cao như 
vậy. “Nói với con”là một bài thơ tiêu biểu cho âm hưởng ấy. Trong phạm vi bài viết 
này, tôi xin được nêu ra một số biểu hiện đặc trưng nhất, như là những định hướng cơ 
bản khi thực hiện giờ dạy. 
 *Về ngôn ngữ, hình ảnh thơ: 
 Có ý kiến cho rằng: Đọc bài thơ Nói với con người ta dễ quên đi sự tỉnh táo để lí 
giải, cắt nghĩa về vẻ đẹp trong từng câu chữ. Đúng vậy, bởi đó là một thứ ngôn ngữ 
quá tự nhiên, quá mộc mạc, như hơi thở, như cuộc sống, như dòng máu của người Tày 
chảy qua đầu ngọn bút mà thành thơ vậy: 
 Chân phải bước tới cha 
 Chân trái bước tới mẹ 
 Một bước chạm tiếng nói 
 Hai bước tới tiếng cười. 
 Những câu thơ là những lời kể, tả hết sức bình dị: Chân phải, chân trái, một 
bước, hai bướcThế mà đủ để cho người đọc cảm nhận rõ một không gian đầy ắp sự 
ríu rít ngọt ngào của một gia đình đầm ấm, với những bước đi chập chững của con, 
với tiếng nói cười rộn rã, với vòng tay nâng niu đón chờ của mẹ cha. Từ “chạm”được 
 Cuộc sống vất vả, nghèo đói, lam lũ, cực nhọc nhưng họ có chí khí, sức mạnh và 
niềm tin: Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương- là một trong những câu thơ 
mang âm hưởng sử thi hào sảng, kiêu hãnh thường bắt gặp trong thơ Y Phương chặng 
đầu. Hình ảnh “Đá”xuất hiện lần thứ hai trong bài thơ và rất nhiều lần trong sáng tác 
của ông như một ám ảnh không nguôi. Gâp ghềnh gian khó là Đá (Sống trên đá không 
chê đá gập ghềnh), cứng cỏi, hiên ngang cũng là Đá. Người đồng mình đục đá kê cao 
quê hương bằng “bàn tay đẽo đá”và “bàn chân đạp bằng đá sắc”. Hình ảnh thơ làm 
rạng ngời lên vẻ đẹp quê hương, vẻ đẹp của ý chí bền bỉ, của đức tính cần cù nhẫn 
nại, của nghị lực phi thường. Vẻ đẹp của sức mạnh tự lực tự cường và tinh thần tự chủ 
của người đồng mình. Bởi thế bài thơ khép lại bằng hình ảnh của người con lên đường 
với hành trình dài rộng và con đường đầy chông gai, nhưng con không bao giờ gục 
ngã: 
 Lên đường 
 Không bao giờ nhỏ bé được 
 Nghe con. 
 Bằng cách dùng từ, lối phô diễn giản dị mộc mạc, bằng lối tư duy giàu hình ảnh 
khiến những câu thơ của Y Phương vừa có tính vật chất cụ thể, vừa thể hiện một trí 
tưởng tượng bay bổng, vừa hồn nhiên chân thật, lại vùa gợi những liên tưởng sâu sắc. 
Vì vậy có thể nói bài thơ đã đi vào tâm trí người đọc trước hết bằng con đường của 
trực giác. Đó chính là sức mạnh của lối tư duy bằng hình ảnh – một nét không thể trộn 
lẫn của thơ Y Phương. 
 * Về giọng điệu, cảm xúc: 
 Cùng với việc sử dụng từ ngữ và hệ thống hình ảnh mang đậm bản sắc vùng cao, 
giọng điệu cũng là một phương tiện khá đặc sắc đã chở tải một cách hiệu quả những 
giá trị tư tưởng đẹp đẽ của bài thơ. 
 Có thể thấy rằng ở bài thơ “Nói với con”ta bắt gặp một giọng điệu đa thanh, vừa 
đằm thắm chất trữ tình, vừa hào hùng chất sử thi, vừa hồn nhiên chân chất, vừa sâu 
lắng tâm tư. Đọc bài thơ, có lúc ta như thấy được ở đó một cánh võng êm ái, có lúc là 
một sự vuốt ve đầy âu yếm, có lúc là đôi bàn tay chắc nịch, khỏe khoắn sẵn sàng nâng 
con dậy khi con vấp ngã trên đường đời. 
 gian khó cực nhọc. Những câu thơ với nhiều âm tiết khép, nhiều thanh trắc,những câu 
ghép không có chủ ngữ, cũng không cần đến quan hệ từ, càng làm cho giọng điệu thơ 
trở nên chắc, gọn, rắn rỏi, mạnh mẽ, khỏe khoắn, như nắng, như gió, như sức vóc, như 
tâm hồn người vùng cao. Đoạn thơ dồi dào nhạc điệu, được tạo nên bởi điệp từ điệp 
ngữ, điệp cấu trúc câu, nhịp thơ khi vươn dài gắng gỏi, khoáng đạt, khi rút ngắn chắc 
nịch, mạnh mẽ. Điệp từ “Sống”được đặt đầu mỗi câu thơ góp phần làm nên giọng 
điệu rắn rỏi, như muốn thể hiện cái tư thế kiêu hãnh của con người quê hương trước 
những khó khăn thử thách. Đó là nguồn tiếp sức cho con, cho con một tư thế, một 
niềm tin, lẽ sống. 
 Rắn rỏi, mạnh mẽ, chắc nịch, khỏe khoắn nhưng âm hưởng chung của bài thơ 
không hề thô cứng. Sự góp mặt của nhiều yếu tố tình thái trong bài thơ như “yêu 
lắm con ơi; thương lắm con ơi; nghe con..”cùng với sự lặp lại của cụm từ “Người 
đồng mình”như một điệp khúc, như một nốt nhấn đã làm cho âm điệu thơ trở nên 
mềm mại, tha thiết, ngọt ngào hơn. Những đặc sắc về nghệ thuật ấy cộng hưởng với 
những cung bậc cảm xúc khi sâu lắng, lúc sôi nổi của nhà thơ đã làm nên sức hấp dẫn 
đặc biệt của tác phẩm. 
 “Nói với con”là một bài thơ đậm đà bản sắc vùng cao và mang đậm dấu ấn 
phong cách Y Phương, một hồn thơ chân thật, mạnh mẽ, trong sáng với cách tư duy 
giàu hình ảnh, những suy tư giàu tính trải nghiệm về lẽ sống, về đạo lí làm người, về 
sự gắn bó chung thủy với quê hương làng bản. 
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ 
 Với những gì như tôi đã trình bày trên cho thấy “Nói với con”thực sự có một vẻ 
đẹp hết sức phong phú và độc đáo, đó là vẻ đẹp của bản sắc vùng cao được thể hiện cả 
trên bề mặt hình thức cũng như cả trong chiều sâu tư tưởng, tình cảm, cảm xúc. Trong 
thực tế, khi thực hiện tiết dạy này tôi thấy vẫn còn bộc lộ một số hạn chế đáng tiếc, đó 
là giáo viên chưa mấy quan tâm đến những yếu tố thể hiện rõ phong cách cá nhân của 
tác giả Y Phương cũng như những nét rất riêng chỉ có thể có được ở một áng thơ ca 
miền núi. 
 * Trước hết xin nói về những mặt thuận lợi khi thực hiện tiết dạy: 
 - Ngay sau khi xuất hiện trong chương trình SGK Ngữ văn 9, đã có rất nhiều 
nguồn tài liệu viết về bài thơ này. Đặc biệt là các nguồn tài liệu chính thống dùng 
trong nhà trường của NXBGD như: Sách giáo viên, Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9, 
 Sách giáo viên Ngữ văn 9 đã bám theo hệ thống câu hỏi trong SGK để triển khai 
và giải quyết vấn đề: 
 Phần 1: Con lớn lên trong tình yêu thương, trong sự nâng đón của cha mẹ. Con 
trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên tươi đẹp và nghĩa tình của 
quê hương. 
 Tất cả đã che chở, đã nuôi dưỡng con cả về tâm hồn và lối sống. 
 Phần 2: Những đức tính cao đẹp của “người đồng mình”và mong ước của người 
cha qua lời tâm tình với con. 
 Cuối cùng là cho học sinh cảm nhận về tình cảm của người cha đối với con, rút 
ra những điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con. 
 Đó là một định hướng rất rõ ràng và dễ thực hiện, tuy nhiên nét hạn chế cũng 
bộc lộ khá rõ: Sự khai thác hầu như thiên về giá trị tư tưởng mà chưa mấy quan tâm 
đến sự độc đáo, bản sắc riêng của một áng thơ miền núi điển hình. 
 Còn sách Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9 trong khi hướng dẫn cách khai thác lại 
quá sa vào tiểu tiết, vụn vặt, vì vậy đã không làm sống dậy được hình tượng thơ thông 
qua những dấu ấn nghệ thuật đặc sắc của bài thơ. 
 - Về phía giáo viên, trong các tiết dạy, họ cũng đã truyền đạt khá đầy đủ những 
nội dung đã được định hướng trong SGV. Tuy nhiên giờ dạy vẫn thiếu đi điều mà ta 
vẫn thường gọi là cái “hồn”, cái “thần thái”của bài thơ, cách chuyên chở rất riêng của 
bài thơ thì vẫn chưa làm lột hiện lên được một cách thỏa đáng. Họ cũng đã rất cố gắng 
muốn chuyển tải cho học sinh thấy được cách nói riêng, khác biệt của một áng thơ ca 
miền núi. Nhưng đáng tiếc là giáo viên đã thực hiện điều đó như một sự gán ghép 
khiên cưỡng bằng cách sau khi cho học sinh tìm hiểu xong nội dung đoạn thơ thường 
giành một câu hỏi như: Cách nói trong đoạn thơ trên có gì đặc sắc ? Và giáo viên kết 
luận: Cách nói giàu hình ảnh, mang đậm dấu ấn của con người miền núi. Thiết nghĩ 
như vậy là mơ hồ, chung chung, thiếu tính thuyết phục. 
 Xin được dẫn ra đây một vài ví dụ: 
 Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu khổ thơ đầu, có giáo viên đã đặt câu hỏi như 
thế này: 
 Bốn câu thơ đầu có ý nghĩa như thế nào? 
 - SGK Ngữ văn 9, phần Đọc – Hiểu văn bản trong câu hỏi một đã có gợi ý: Bài 
thơ có bố cục hai phần – gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người; gợi về sức 
sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương. Bài dạy của chúng ta men theo bố cục đó. 
 + Ở phần một, từ đầu cho đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”: Ngoài những 
điều mà sách giáo viên đã hướng dẫn thực hiện, theo tôi có hai điểm mấu chốt mà 
chúng ta cần làm được: 
 Trước hết là cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh vừa cụ thể vừa khái quát, vừa 
mộc mạc, gần gũi lại vừa giàu sức gợi ở bốn câu thơ đầu: “chân phải, chân trái” 
“một bước, hai bước” “chạm tiếng nói, tới tiếng cười” gợi lên một kí ức đẹp đẽ của 
con người thuở ấu thơ. Con bước những bước đi chập chững đầu tiên trong ánh mắt 
dõi theo, trong niềm vui đón đợi và vòng tay nâng niu của cha của mẹ. Đoạn thơ gợi 
lên một không gian ấm cúng, ríu rít tiếng nói cười, đầy ắp tình yêu thương, tràn ngập 
niềm hạnh phúc. Đó là cái nôi đầu tiên để con được lớn lên. 
 Tấm lòng của cha mẹ, tình yêu thương của gia đình là vậy, rất cần cho con 
nhưng chưa đủ. Sự lớn lên của con còn cần đến nguồn mạch tinh thần thứ hai, đó là 
nghĩa tình của quê hương làng bản. 
 Đến sáu câu thơ tiếp lại là một vẻ đẹp khác của ngôn từ và hình ảnh. Nếu ở 
bốn câu trên là cách nói mộc mạc ít trau chuốt, thì đây lại là cách nói rất sáng tạo, 
mới mẻ: “người đồng mình”cất lên một cách trìu mến để gọi những người cùng sống 
trên một miền đất, cùng chung quê hương, bản quán. Hình ảnh thơ đến đây cũng 
mang một vẻ đẹp khác lạ. Vẫn là những gì thân thuộc gần gũi với con người vùng 
cao: “đan lờ” “vách nhà”, là “rừng “là “con đường “nhưng lại được “cài nan hoa” 
“ken câu hát”. Cài, ken, vốn là những từ chỉ hoạt động rất quen thuộc mỗi ngày của 
họ, nhưng ở đây nó không còn mang nghĩa cụ thể nữa mà diễn tả một điều trìu tượng 
rất đáng yêu. Câu thơ làm hiện lên cuộc sống tươi vui, lãng mạn của người đồng mình 
một cách hết sức tự nhiên, chân thật. Chính cuộc sống đó của con người quê hương 
đã giành cho con những gì đẹp đẽ nhất, quí giá nhất: là nghĩa tình thân thương sâu 
nặng- là sự che chở đùm bọc, nâng niu con khôn lớn, trưởng thành. 
 Bằng những hình ảnh thơ đẹp, gần gũi, bằng cách nói cụ thể, độc đáo, giản dị, 
người cha gợi nhắc con về cội nguốn sinh dưỡng, đó là tình yêu thương chăm bẵm 
của cha mẹ, gia đình, là nghĩa tình, sự che chở của quê hương làng xóm, tất cả cùng 
nuôi dưỡng con cả về tâm hồn và lối sống. 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_kham_pha_ban_sac_vung_ca.pdf