Sáng kiến Kinh nghiệm giúp học sinh Lớp 9 trường THCS Thái Hòa - Ba Vì làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (Hoặc đoạn trích)

doc 20 trang sklop9 28/10/2024 380
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến Kinh nghiệm giúp học sinh Lớp 9 trường THCS Thái Hòa - Ba Vì làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (Hoặc đoạn trích)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến Kinh nghiệm giúp học sinh Lớp 9 trường THCS Thái Hòa - Ba Vì làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (Hoặc đoạn trích)

Sáng kiến Kinh nghiệm giúp học sinh Lớp 9 trường THCS Thái Hòa - Ba Vì làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (Hoặc đoạn trích)
 PHÒNG GD&ĐT BA VÌ
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 TÊN ĐỀ TÀI
 KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 9 
 TRƯỜNG THCS THÁI HÒA – BA VÌ
 LÀM TỐT KIỂU BÀI NGHỊ LUẬN 
VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN (HOẶC ĐOẠN TRÍCH)
 Người thực hiện: Phùng Thị Xuân Hương
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường THCS Thái Hòa
 SKKN thuộc lĩnh vực : Ngữ văn
 BA VÌ NĂM 2021 I. MỞ ĐẦU
 1. Lý do chọn đề tài
 Giáo viên Ngữ văn không chỉ là người truyền thụ kiến thức cho học sinh mà 
còn có vai trò tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm tòi, khám phá, hiểu biết để cảm nhận, 
vận dụng kiến thức, kỹ năng Văn học đúng hướng, đúng cách, tránh suy diễn, áp đặt 
để học sinh tự cảm nhận cái hay cái đẹp của tác phẩm và bộc lộ được những nhận 
thức của mình. Dạy- học văn nghị luận có vai trò quan trọng trong nhà trường, bởi 
kiến thức và kĩ năng được rèn luyện trong quá trình học tập về nghị luận và cách nghị 
luận không chỉ giúp cho học sinh khả năng làm văn mà có tác dụng hình thành năng 
lực cả về tư duy và sự thành công trong giao tiếp của các em. Ảnh hưởng của văn 
nghị luận đạt được không chỉ trong phạm vi môn Ngữ văn mà còn lan tỏa tới tất cả 
các môn học khác ở trường phổ thông. Cũng như các kiểu văn bản khác, ngoài mục 
đích văn chương, văn bản nghị luận với những giá trị đặc trưng riêng đã đem lại cho 
người học những phát triển mà mỗi dạng văn bản tạo ra từ chính giá trị của bản thân 
tác phẩm. Văn bản nghị luận thuyết phục người đọc, người nghe thông qua hệ thống 
luận điểm, luận cứ, luận chứng và những hình ảnh sinh động gắn với thực tiễn. Vẻ 
đẹp riêng của văn nghị luận vừa cuốn hút hấp dẫn vừa tạo dòng chảy tư duy mạch lạc 
chặt chẽ trước các vấn đề chính trị xã hội và cả đời sống nhân sinh.
 Nghị luận tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) nói 
riêng là một kiểu bài nghị luận có vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm văn 
lớp 9. Thông qua việc đọc và học tác phẩm văn học trong phần đọc hiểu văn bản, học 
sinh chẳng những có một vốn khá phong phú về kiến thức văn học (tác phẩm, thể 
loại) mà các em còn được nâng cao dần về năng lực cảm thụ, phân tích, bình giá 
tác phẩm Khi được học phương pháp nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn 
trích), học sinh được rèn luyện thêm kĩ năng này một cách có hệ thống, được thực 
hành từng bước cụ thể chi tiết qua một số đề bài trong sách giáo khoa, đề bài do giáo 
viên sưu tầm. Hơn thế nữa, khi thi vào Trung học Phổ thông đây là một trong hai 
dạng đề quan trọng chiếm tới nửa số điểm của đề Văn.
 2. Mục đích nghiên cứu 
 Nhận thức được tầm quan trọng của kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện 
(hoặc đoạn trích), tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến: Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 
9 trường THCS Thái Hòa – Ba Vì làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm 
truyện (hoặc đoạn trích), để rèn luyện cho học sinh trường THCS Thái Hòa đạt kết 
quả tốt nhất khi làm kiểu bài này.
 3. Đối tượng nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là học sinh khối 9 trường 
THCS Thái Hòa.
 4. Phương pháp nghiên cứu
 - Phương pháp thống kê để phân tích.
 3 2.2. Khó khăn 
 2.2.1. Về phía học sinh
 Do sự phát triển của khoa học kĩ thuật, do những đòi hỏi về nhu cầu trong cuộc 
sống hiện đại bản thân học sinh và phụ huynh thường hướng cho con theo các môn 
học tự nhiên để thuận lợi cho việc học nghề sau này; bản thân học sinh 
trong lúc học, quen lối suy nghĩ ngắn gọn, không biết cách trình bày, ngại học và viết 
Văn.
 Theo điều tra thực tế học sinh trường THCS Thái Hòa trong những năm gần 
đây, học sinh khối lớp 9 viết kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện thường khô cứng, 
sáo rỗng, lúng túng và máy móc... Các em cũng hoàn thành đầy đủ các bài thi nhưng 
thường dựa vào văn mẫu hoặc dựa vào các ý trong đề cương hay trong dàn ý thầy cô 
cho sẵn rồi viết lại nên rất hạn chế về mạch cảm xúc (cảm xúc thường không chân 
thật, còn gượng ép). Rất ít học sinh chịu khó tìm tòi, khám phá ra các ý mới, ý 
riêng, ý sâu sắc, ý hay do chính bản thân các em cảm nhận, chưa thật sự rung động 
với tác phẩm, bởi thế mà chất lượng môn văn kể cả đại trà lẫn mũi nhọn chưa cao.
 Mặt khác, đa số các em học sinh thường không tìm hiểu kĩ đề bài và tìm ý trước 
khi bắt tay vào làm bài viết của mình nên thường lệch lạc kiểu bài, nhầm lẫn các 
dạng đề. Đó là một thực trạng phổ biến không chỉ riêng trường Thái Hòa mà còn ở 
hầu khắp các trường THCS hiện nay.
 2.2.2.Về phía giáo viên
 Vì học sinh ngại học hoặc xem nhẹ môn Ngữ văn nên nhiều giáo viên cũng có 
tâm lí chán nản, dao động. Trong các phân môn của Ngữ văn thì phân môn Tập làm 
văn vừa khô vừa khó. Khi thao giảng, thanh tra... giáo viên thường chỉ đăng ký giảng 
Văn và Tiếng Việt, bởi dạy hai phân môn này thường dễ thành công hơn, còn dạy 
Tập làm văn đặc biệt là kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện... giáo viên thường ít 
đăng kí. 
 Trong năm học 2019 - 2020, tôi đã tiến hành khảo sát ở lớp 9 (thực hành một 
đề nghị luận về tác phẩm truyện) với đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân 
vật ông Hai qua truyện ngắn làng của nhà văn Kim Lân. Tôi đã thu được kết quả như 
sau:
 Sĩ Giỏi Khá TB Yếu Kém
 Lớp
 số SL % SL % SL % SL % SL %
 9B 38 2 5,3 7 18,4 20 52,6 9 23,7 0 0
 Nhìn vào kết quả khảo sát trên, tôi luôn trăn trở và lo lắng, số học sinh không 
có hứng thú học tập bộ môn rất nhiều, bài làm nhiều em còn sa vào kể, diễn xuôi tác 
phẩm truyện hoặc xác định đề sai, lạc đề, ý không rõ ràng chưa có những nhận xét 
đánh giá trong bài. Điều đó cũng chứng tỏ các em chưa biết cách làm kiểu bài này, 
các em đang còn nhầm giữa cách làm bài nghị luận với cách làm bài tự sự, chưa biết 
 5 (1948) (1920- ngắn tủi hổ của ông Hai nôi tình huống 
 2007 Tự sự kết tản cư khi nghe tin làng truyện, 
 hợp với mình theo giặc, truyện nghệ thuật 
 miêu tả và thể hiện lòng yêu làng miêu tả tâm 
 biểu cảm quê với lòng yêu nước và lí và ngôn 
 tinh thần kháng chiến ngữ nhân 
 của người nông dân sau vật
 cách mạng
 Lặng lẽ Nguyễn - Truyện Cuộc gặp gỡ tình của Xây dựng 
 Sa Pa Thành ngắn ông họa sĩ cô kĩ sư mới tình huống 
 (1970) Long - Tự sự ra trường với anh thanh hợp lí, cách 
 rút từ (1925- kết hợp niên làm việc một mình kể chuyện 
 tập 1991) với biểu trên trạm khí tượng . Qua tự nhiên, có 
 “Giữa cảm đó ca ngợi những con sự kết hợp 
 trong người thầm lặng, có cách giữa tự sự 
 xanh” sống đẹp, cống hiến cho trữ tình và 
 mình cho đất nước bình luận
 Việc yêu cầu học sinh thống kê và học thuộc các đơn vị kiến thức ấy sẽ giúp 
học sinh thâm nhập được những kiến thức cơ bản nhất, quan trọng nhất khi tiến hành 
nghị luận. Thường thì khi dạy kiểu bài này giáo viên thường bỏ qua việc nắm lại tác 
phẩm, chỉ chú tâm ra đề và yêu cầu học sinh làm bài nên dẫn đến tình trạng học sinh 
không trình bày được hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm hay nội dung xác định để nghị 
luận thường lan man. Lập được bảng thống kê này sẽ hạn chế được những lỗi ấy. 
Thuộc và nắm kĩ bảng thống kê này học sinh sẽ làm được nhiều dạng đề khác nhau, 
có thể tập trung vào nghệ thuật hoặc nội dung. Như vậy khi lập bảng, giáo viên cần 
lưu ý cho học sinh một số vấn đề sau:
 Nắm được năm sáng tác để liên hệ về hoàn cảnh ra đời của bài, có thể dùng 
vầo phần mở bài hoặc thân bài của bài nghị luận
 Nắm phương thức biểu đạt để biết cách dùng từ, trình bày và diễn đạt đúng 
thể loại
 Nắm nội dung để tránh sự lan man khi phân tích (nội dung có thể xem là 
luân điểm chính)
 Nắm nghệ thuật để làm phương tiện phân tích cũng như đạt được các yêu cầu 
về trình bày các giá trị nghệ thuật
 Ví dụ:
 Với dạng đề: Phân tích tác phẩm “Làng” của nhà văn Kim Lân, cần hướng 
cho học sinh nắm được:
 Đây là dạng đề phân tích tác phẩm, khi học sinh nắm và hiểu bảng trên thì khi 
phân tích sẽ tập trung vào các nội dung:
 + Sáng tác năm 1948: Là những năm đầu thời kì kháng chiến chống thực dân 
Pháp.
 7 c. Hướng dẫn học sinh các bước làm bài văn nghị luận về tác phẩm 
truyện (hoặc đoạn trích) và lấy ví dụ mẫu. 
 Để giúp học sinh rèn luyện được các kĩ năng viết một tác phẩm hoàn chỉnh thì 
phải hướng dẫn học sinh các bước làm bài. Cụ thể tôi đã hướng dẫn học sinh như sau:
 c.1. Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý
 c.1.1. Tìm hiểu đề: 
 Tìm hiểu đề là khâu đầu tiên, có vai trò quyết định “dẫn đường chỉ lối” cho 
người làm bài. Nếu phân tích đúng yêu cầu của đề bài thì sẽ tìm ra được hướng đi 
đúng. Ngược lại nếu phân tích sai, sẽ không đáp ứng được yêu cầu của đề, đôi khi 
còn bị lệch đề, lạc đề. Vì thế giáo viên phải hướng dẫn học sinh biết phân tích kỹ đề. 
 Đề bài văn nghị luận về tác phẩm truyện có 2 loại: đề mệnh lệnh và đề mở. Đề 
mệnh lệnh là những đề bài có yêu cầu rõ ràng như: suy nghĩ, cảm nhận, phân tích, 
còn dạng đề mở là những đề bài không có yêu cầu, học sinh tùy từng vấn đề để lựa 
chọn những thao tác phù hợp. với cả hai dạng đề nghị luận này đối tượng nghị luận 
có thể là tác phẩm, nhân vật hay những đổi thay trong số phận của nhân vật. 
 Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) không bao giờ đồng nhất một 
dạng đề đơn điệu, ở chương trình lớp 9 các em tập trung vào 3 dạng cơ bản sau: 
 Dạng đề 1: Suy nghĩ, cảm nhận, phân tích về nhân vật hoặc khía cạnh của 
nhân vật trong tác phẩm hoặc đoạn trích. 
 Ví dụ như các đề bài:
 - Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn: “Làng” của Kim Lân 
(SGK Ngữ văn 9 tr 65) 
 Dạng đề 2: Suy nghĩ, cảm nhận, phân tích tác phẩm, đoạn trích hoặc một khía 
cạnh về tác phẩm, đoạn trích. 
 Ví dụ như các đề:
 - Phân tích truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long
 - Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân 
(SGK Ngữ văn 9 tr 65)
 Dạng đề 3: Phân tích tác phẩm để nêu ra nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn 
đề.
 Ví dụ như các đề:
 - Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ 
Nương ở truyện Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ (SGK Ngữ văn 9 tr 65)
 - Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn 
Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng (SGK Ngữ văn 9 tr 65)
 Tuỳ theo mỗi dạng đề bài mà giáo viên hướng dẫn học sinh các thao tác làm 
bài khác nhau. 
 Đối với dạng đề 1 và dạng đề 2: Học sinh thường hay nhầm lẫn, tôi đã 
hướng dẫn cho các em biết phân biệt rõ thế nào là suy nghĩ, cảm nhận về nhân vật, về 
tác phẩm? Thế nào là phân tích nhân vật, tác phẩm? Suy nghĩ, cảm nhận về nhân vật, 
tác phẩm hoặc một khía cạnh về nhân vật, tác phẩm là nghiêng về cảm nhận chủ quan 
 9 Ví dụ: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn 
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
 Với đề này tôi đã cho học sinh tiến hành thực hành các thao tác ở trên và yêu 
cầu đạt được kết quả sau:
 - Yêu cầu, tính chất của đề: viết bài văn nghị luận về một vấn đề trong tác 
phẩm văn xuôi.
 - Vấn đề cần bàn luận là: đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua 
truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng
 - Những tri thức cần có: tìm đọc toàn bộ truyện ngắn này trong sách tham 
khảo. Nắm nội dung và nghệ thuật cơ bản. Phân tích đoạn trích để chứng minh chiến 
tranh có thể tạo ra sự xa cách, gây ra sự hiểu lầm, nhưng chiến tranh không làm mất 
đi tình cha con mà tình cảm ấy còn sâu nặng hơn.
 c.1.2. Tìm ý:
 Tìm ý là bước khá quan trọng trong bài văn. Tìm ý là xác định các ý chính, ý 
phụ sẽ viết. Có nghĩa là xác định nội dung trọng tâm sẽ làm ở bài viết.
 Muốn tìm được ý đúng, ý đủ, ý hay, trước hết tôi cho học sinh quan sát và nắm 
vững lại bảng thống kê ở phần trước để nắm được nội dung và nghệ thuật của tác 
phẩm.
 Học sinh tự đặt ra và trả lời những câu hỏi xung quanh tác phẩm mục đích để 
tìm ra ý lớn, ý nhỏ của bài văn
 Tôi đã sử dụng một số câu hỏi giúp học sinh tìm ý. Cụ thể:
 Câu hỏi tìm hiểu tác giả, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác :
 Tôi đã đưa hệ thống câu hỏi để học sinh có thể dễ dàng khi tìm ý. Cụ thể: Tác giả 
của tác phẩm truyện sẽ nghị luận là ai? Có những nét gì nổi bật trong cuộc đời và sự 
nghiệp sáng tác? Sống trong thời kì nào? Có nét riêng, nét độc đáo gì về phong cách 
cá nhân? (Chuyên sáng tác về mảng đề tài nào? Sự nghiệp sáng tác ra sao?) Tác 
phẩm truyện trên được trích từ đâu? Được sáng tác trong hoàn cảnh nào? 
Tác phẩm được đánh giá như thế nào? Có phải là tác phẩm tiêu biểu cho sự sáng tác 
văn chương của tác giả không?
Với hệ thống câu hỏi này học sinh khi làm có thể đưa vào phần mở bài hoặc phần đầu 
của phần thân bài 
 Câu hỏi tìm giá trị nội dung:
 Sau đây là hệ thống câu hỏi tôi sử dung để giúp học sinh tìm giá trị nội dung
 Đề bài gồm mấy ý? Ý nghĩa cụ thể, ý nghĩa khái quát là gì? Những ý nào tập 
trung biểu hiện chủ đề, tư tưởng của truyện? Nội dung có thể hiện được những vấn đề 
lớn, bức xúc mà xã hội quan tâm hay không? Có giá trị nhân văn như thế nào? 
 Nhân vật chính của truyện là ai? Đại diện cho tầng lớp con người nào trong xã 
hội? Có những nét tính cách như thế nào? Nét tính cách nào là tiêu biểu nhất? Nét 
tính cách đó được thể hiện qua những chi tiết nào? (diện mạo, cử chỉ, lời nói, hành 
động, tư tưởng, tình cảm, nội tâm?) đây chính là phần trọng tâm của các loại đề.
 Câu hỏi tìm giá trị nghệ thuật:
 11

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_9_truong_thcs_thai_h.doc