Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn bằng phương pháp sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học

doc 16 trang sklop9 10/06/2024 1230
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn bằng phương pháp sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn bằng phương pháp sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn bằng phương pháp sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học
 Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2012 - 2013
 THÔNG TIN VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến: 
 Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn bằng phương pháp sử dụng
 Bản đồ tư duy trong dạy học.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn học Ngữ văn trong nhà trường THCS.
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
 Từ ngày 20 tháng 9 năm 2011 đến ngày 15 tháng 3 năm 2013.
4. Tác giả:
Họ và tên: Trần Văn Quang
Năm sinh: 1977
Nơi thường trú: Thọ Nghiệp - Xuân Trường - Nam Định.
Trình độ chuyên môn: Cử nhân cao đẳng.
Chức vụ công tác: Giáo viên 
Nơi làm việc: Trường THCS Thọ Nghiệp - Xuân Trường - Nam Định.
Địa chỉ liên hệ: Trường THCS Thọ Nghiệp - Xuân Trường - Nam Định.
Điện thoại: 03503750331
5. Đồng tác giả: Tham khảo tài liệu về phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, thư 
vện violet và tư liệu của đồng nghiệp.
Họ và tên:
Năm sinh:
Nơi thường trú:
Trình độ chuyên môn:
Chức vụ công tác:
Nơi làm việc:
Địa chỉ liên hệ:
Điện thoại:
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THCS Thọ Nghiệp - Xuân Trường - Nam Định.
Địa chỉ: Xóm 10 xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trương, tỉnh Nam Định.
Điện thoại: 03503886382
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 1 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2012 - 2013
pháp, cách thức tổ chức vừa hiệu quả vừa tạo được hứng thú cho học sinh đối với môn 
Ngữ văn là rất cần thiết.
2. Cơ sở thực tiễn:
 Năm học 2011 - 2012 là năm học Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục đổi mới phương 
pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngữ văn trong các nhà trường phổ 
thông. Một trong những phương pháp dạy học mới và hiện đại nhất được đưa vào là 
phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy (BĐTD) - một phương pháp dạy học mới 
đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và vận dụng 
phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, tôi nhận thấy phương pháp dạy học này rất 
có hiệu quả trong công tác giảng dạy và học tập của học sinh. Bước đầu đã giảm bớt 
được tâm lý ngại học văn, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với môn học, đồng thời 
đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới về môn học Ngữ văn. Vậy thế nào là 
phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy? Cần sử dụng bản đồ tư duy như thế nào để 
nâng cao chất lượng trong các giờ học văn? Đó là những vấn đề tôi muốn cùng được 
chia sẻ với các đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này .
 Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và 
đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó 
là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc 
phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác 
tiềm năng vô tận của bộ não.
 BĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả hơn: Việc rèn luyện 
phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học 
mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ 
nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên 
phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến 
thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh khi đọc sách hoặc 
nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng 
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 3 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2012 - 2013
cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô 
nghê, tối nghĩa, lủng củng ... Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là 
đáng báo động trong xã hội ta.
 Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng thực tế hiện 
nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ, mặc dù kiến 
thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người. Muốn khôi phục 
sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, không thể chỉ bằng biện 
pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học văn, khơi gợi 
lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em phương pháp học văn hiệu 
quả nhất.
2. Nguyên nhân:
a. Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công 
tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế 
sau :
- Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh 
yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao.
- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan 
vào tiết học hạn chế, nội dung kiến thức SGK nhiều ảnh hưởng đến chất lượng giảng 
dạy của giáo viên, việc tiếp thu bài học của học sinh cũng bị hạn chế.
- Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn 
cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học.
- Đời sống giáo viên còn nhiều khó khăn, đầu tư ngân sách cho các hoạt động giáo dục 
của nhà trường còn hạn chế, các tiêu chí thi đua đề ra quá cao, không có tính thực thi 
vì thế không phát huy hết được nội lực của giáo viên.
b. Đối với học sinh:
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 5 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2012 - 2013
sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng. Hơn nữa, việc BĐTD dùng rất nhiều màu sắc khiến 
giáo viên và học sinh phải vận dụng trí tưởng tượng sáng tạo đầy phong phú của mình. 
Nhưng đây không chỉ là một bức tranh đầy màu sắc sặc sỡ thông thường, BĐTD giúp 
tạo ra một bức tranh mang tính lý luận, liên kết chặt chẽ về những gì được học.
2. BĐTD sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc: BĐTD thật sự giúp bạn tận 
dụng các chức năng của não trái lẫn não phải khi học. Đây chính là công cụ học tập 
vận dụng được sức mạnh của cả bộ não. Nếu vận dụng đúng cách, nó sẽ hoàn toàn giải 
phóng những năng lực tiềm ẩn trong bạn, đưa bạn lên một đẳng cấp mới, đẳng cấp của 
một tài năng thực thụ hay thậm chí của một thiên tài.
B. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Ngữ văn:
1. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học:
- Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài 
mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em 
tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó học sinh 
sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng.
- Ví dụ 1: Với văn bản: “Thầy bói xem voi” (Môn Ngữ văn lớp 6), sau phần đọc và 
tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình BĐTD lên bảng. BĐTD gồm 5 nhánh 
chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung, kiến 
thức của bài học.
 Để có thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của bài học, giáo viên sử dụng hệ thồng 
câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức: 
+ Bố cục của văn bản: Học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý chính (Hoàn 
cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con voi, hậu quả.)
+ Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có tính gợi mở 
(các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem voi của các thầy ra sao, ...) từ đó rút 
ra nhận xé về kết quả của cách xem voi phiếm diện để khái quát thành bài học về cách 
nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 7 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2012 - 2013
 Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6
- Có thể dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức 
sau mỗi chương, phần: Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự 
hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi 
bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này 
sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng.
- Ví dụ 1: Ở lớp 9, trong bài “ Tổng Kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ dàng tổng hợp 
kiến thức về từ loại tiếng Việt bằng BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có về từ loại đã học 
ở lớp dưới. Đặc trưng của tiết học này là ôn tập, khái quát lại kiến thức đã học vì vậy 
BĐTD sẽ giúp các em có cái nhìn tổng quát hơn về từ ngữ tiếng Việt. Việc sử dụng 
BĐTD trong tiết tổng kết văn học nói chung, trong phân môn tiếng Việt nói riêng 
không chỉ có tác dụng khái quát hóa kiến thức mà còn giúp củng cố kỹ năng nhận biết 
và kỹ năng thực hành. Tổng kết ngữ pháp ở lớp 9 được coi là giờ thực hành. Vì vậy 
giáo viên cần linh hoạt trong việc tổ chức các hình thức học tập. Với kiểu bài này, 
giáo viên nên tạo ra các nhóm học tập thực hiện việc vẽ BĐTD, sau đó đại diện các 
nhóm trình bày bài làm của nhóm mình, các nhóm khác nhận xét, góp ý, bổ sung thêm 
cho bài làm. Cuối cùng giáo viên chốt lại kiến thức.
 Sơ đồ minh hoạ
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 9 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2012 - 2013
+ Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung (gái trị hiện thực, giá trị nhân đạo); giá trị 
nghệ thuật của truyện.
 Sơ đồ minh hoạ
 Đây là những hình ảnh được vẽ bằng phần mềm Mindmap mà tôi tham khảo từ 
đồng nghiệp trên thư viện violet. Việc sử dụng phần mềm Mindmap không dễ, tuy 
nhiên chúng ta có thể đơn giản hóa phương pháp trên qua sơ đồ hình nan quạt, xương 
cá, mô hìnhViệc sơ đồ hóa kiến thức trong tiết dạy Ngữ văn chắc chắn sẽ gúp học 
sinh nhớ kiến thức lâu hơn, hệ thống hơn. Đối với phân môn Tập làm văn BĐTD hay 
sơ đồ có thể coi là một dàn ý sơ lược của một đề bài cụ thể.
2. Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy 
lôgic.
- Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài 
mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa hoặc để tư duy 
một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, 
kĩ năng ghi chép.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 11 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2012 - 2013
- Khi chúng ta chưa định hướng được kế hoạch rõ ràng, vẫn chỉ là những ý tưởng, sử 
dụng phương pháp BĐTD chắc chắn sẽ thành công.
- Khi ta bắt đầu cho một dự án kinh doanh khởi nghiệp, ta phải lo quá nhiều việc một 
lúc. Có khi nào ta nản trí vì đuối sức? BĐTD sẽ giúp bạn tư duy thông suốt và biết sắp 
xếp công việc theo một trật tự ngay từ đầu.
2 - Hiệu quả về mặt xã hội:
- Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh học 
tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai nội dung dạy 
học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của phong trào thi đua 
“Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát 
động.
- Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết 
quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp 
giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ 
động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh 
hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông 
qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức. 
- Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung 
và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi thấy bước đầu có những 
kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD trong 
hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng cố 
kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, 
hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, 
tổng hợp kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng BĐTD để củng 
cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng 
trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học 
tiếng Việt.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 13 Giáo viên: Trần Văn Quang

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_mon_ngu_van_bang_p.doc