Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy bài nghị luận truyện (đoạn trích) cho học sinh Lớp 9
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy bài nghị luận truyện (đoạn trích) cho học sinh Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy bài nghị luận truyện (đoạn trích) cho học sinh Lớp 9
Phương pháp dạy bài nghị luận truyện (đoạn trích) cho học sinh lớp 9. PHẦN I: ĐĂT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài Dạy văn nói chung, dạy phân môn tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác phẩm văn học (phần truyện hoặc đoạn trích) nói riêng ở khối lớp 9 trường Trung học cơ sở là dạy cho các em học sinh lứa tuổi 14, 15 - lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng, năng động và nhạy cảm biết tìm tòi, khám phá ra thế giới văn chương nghệ thuật. Tác phẩm văn chương dù là một câu tục ngữ, một bài ca dao, hay là một bài văn, một bài thơ, một truyện ngắn đến một bộ tiểu thuyết đều có giá trị về nội dung và nghệ thuật của nó. Làm thế nào để giúp học sinh đồng cảm với những giá trị tư tưởng nhân văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ giảng dạy của giáo viên dạy Ngữ văn. Lep – Tôn - XTôi đã từng nói: “Vấn đề không phải biết là quả đất tròn mà là làm thế nào để biết được quả đất tròn?”. Chân lí là quý báu! Nhưng cách tìm ra chân lí còn quý hơn nhiều. Vì thế, cái khó trong việc dạy văn, nhất là dạy Tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác phẩm truyện là làm sao hướng cho học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm. Tác phẩm văn học là một tổng thể hoàn chỉnh giữa nội dung và phương thức biểu đạt, hay còn gọi là nghệ thuật. Nghị luận một tác phẩm truyện (đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể. Những nhận xét, đánh giá phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát. Các nhận xét, đánh giá về tác phẩm truyện trong bài nghị luận phải rõ ràng, đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục. Bài nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích) phải có bố cục chặt chẽ, mạch lạc, rõ ràng có lời văn chuẩn xác, gợi cảm. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu làm một bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích), giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ tính chất tổng hợp của kiểu bài nghị luận này. Trong 1 Phương pháp dạy bài nghị luận truyện (đoạn trích) cho học sinh lớp 9. PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI I. Cơ sở lí luận Giáo sư Lê Trí Viễn cũng có lời nhắn nhủ: “Dạy văn lấy cảm làm đầu”. Người giáo viên dạy học sinh phương pháp làm bài văn Nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích) không thể nghèo nàn cảm xúc. Bởi những trang truyện hay, những số phận của các nhân vật trong truyện đều có cuộc đời riêng, có tư tưởng, tình cảm, nội tâm phong phú và đa dạng. Cho nên trong hướng gợi ý học sinh trình bày những cảm nhận, đánh giá về nhân vật, sự kiện, chủ đề trong tác phẩm truyện phải xuất phát từ những rung cảm chân thật, thẩm mĩ. Đồng thời biết kết hợp linh hoạt nhiều phép lập luận (giải thích, chứng minh, phân tích,). Trong khi hướng dẫn học sinh cách làm bài và luyện tập, giáo viên cần chú ý phát huy, động viên tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng học sinh chứ không gò ép theo những khuôn mẫu. Người giáo viên phải biết khơi gợi những cảm xúc của học sinh, kích thích và nuôi dưỡng, phát triển ở học sinh những nhu cầu đồng cảm và khát vọng nhận thức cái mới qua hình tượng nhân vật, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, ...Vì vậy, nếu ai đó tự cho rằng mình đã gợi đầy đủ các ý tưởng của tác phẩm qua từng trang truyện thì chưa hẳn là một giáo viên dạy tốt, nắm chắc phương pháp hướng dẫn học sinh cách làm bài văn Nghị luận về tác phẩm truyện. 3 Phương pháp dạy bài nghị luận truyện (đoạn trích) cho học sinh lớp 9. Mặt khác, đa số các em học sinh thường không tìm hiểu kĩ đề bài và tìm ý trước khi bắt tay vào làm bài viết của mình nên thường lệch lạc kiểu bài, nhầm lẫn các dạng đề. Đề bài Nghị luận về tác phẩm truyện thường có các dạng đề mệnh lệnh và “mở”. Các mệnh lệnh thường gặp là “suy nghĩ” (về nhân vật, tác phẩm), “cảm nhận của em” (về nhân vật, tác phẩm).. 2.Nguyên nhân Về phía giáo viên, không ít thầy cô còn e ngại khi dạy phân môn Tập làm văn. Qua nhiều năm theo dõi phong trào thi đua dạy giỏi các cấp và dạy tốt ở trường, giáo viên thường chỉ đăng kí dạy phân môn Giảng văn và Tiếng Việt. Bởi dạy phân môn Tập làm văn nhất là kiểu bài Nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích), giáo viên phải tìm tòi nghiên cứu kĩ về tác phẩm, phải thực sự nhập tâm vào cốt truyện, vào nhân vật, phải đặt mình trong hoàn cảnh nhân vật sống, nhân vật suy nghĩ và hành động đòi hỏi giáo viên phải vận dụng, tổng hợp nhiều kiến thức, kể cả vốn sống, vốn tư tưởng tình cảm. Thế là giáo viên phải tìm ra phương pháp tích hợp giữa văn và đời, giữa thực tại và hư cấu Có thực hiện được như thế, mới có thể đảm bảo được đặc trưng của phân môn : “Dạy văn - Dạy người” như nhà văn M. Gorki từng nói: “Văn học là nhân học”. Là giáo viên nhiều năm dạy Ngữ văn trong Trường THCS, tôi luôn tâm đắc câu nói của dân gian : “Cho cá không thích bằng nhận được cần câu”. Nếu ví bộ cần câu là phương pháp và cá ăn là kiến thức thì sự đánh giá về vai trò, tầm quan trọng của hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh là phải tìm tòi và sáng tạo. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi luôn trân trọng, đánh giá cao những bài làm có nét riêng, thể hiện được những cảm xúc chân thật, những nhận xét, phân tích tinh khôi, sáng tạo của các em đối với một tác phẩm, một nhân vật (một vấn đề hay một khía cạnh của vấn đề thể hiện trong tác phẩm). Đó cũng chính là nguồn động viên không nhỏ giúp tôi đầu tư và quyết định viết kinh nghiệm này, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên - học sinh. 5 Phương pháp dạy bài nghị luận truyện (đoạn trích) cho học sinh lớp 9. - Trình bày những cảm nhận, đánh giá phải có lí lẽ, lập luận, đồng thời phải qua phân tích, chứng minh bằng các dẫn chứng cụ thể. - Kết hợp đồng thời, linh hoạt nhiều phép lập luận (giải thích, chứng minh, phân tích,...). Trong khi hướng dẫn cách làm bài và luyện tập, giáo viên cần chú ý phát huy động viên tính tích cực sáng tạo của học sinh, rất nên khuyến khích những suy nghĩ, những cách trình bày có màu sắc riêng của các em, tránh gò ép định hướng quá rõ cho học sinh theo những khuôn mẫu. 1. Giải pháp 1. Hướng dẫn học sinh phân tích đề Đây là khâu vô cùng quan trọng, trước đây khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này tôi thường xem nhẹ khâu này cho nên trong quá trình làm bài vẫn còn hiện tượng một số học sinh làm sai đề, lạc đề. Một đề bài Tập làm văn còn được xem là một bài toán nghệ thuật ngôn từ. Bởi bao giờ trong một đề bài Tập làm văn cũng có những yêu cầu bắt buộc mà người thực hiện đề bài phải tìm ra phương pháp giải. Vì thế, bước phân tích đề được xem là khâu đầu tiên, có vai trò quyết định “dẫn đường, chỉ lối” cho người làm bài. Nếu phân tích đúng yêu cầu của đề bài thì sẽ tìm ra được hướng đi đúng. Ngược lại, nếu phân tích sai thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu của đề, đôi khi còn bị lệch đề, lạc đề . Chính vì thế mà người giáo viên phải hướng dẫn học sinh phải biết phân tích kĩ đề. Một đề bài văn Nghị luận về tác phẩm truyện không bao giờ đồng nhất một dạng đề đơn điệu. Trái lại, nó có rất nhiều dạng, nhưng chủ yếu ỏ lớp 9 dạng thường gặp 3 dạng đề cơ bản sau đây: Dạng đề I: Suy nghĩ về nhân vật, tác phẩm hoặc một khía cạnh nhân vật, tác phẩm. Ví dụ như các đề + Suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” của Nguyễn Du (Sách giáo khoa Ngữ văn 9 - tập 2 - trang 65 ) 7 Phương pháp dạy bài nghị luận truyện (đoạn trích) cho học sinh lớp 9. Lân, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cảm nhận, suy nghĩ về nét nổi bật của nhân vật này là tình yêu làng quyện với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến được bộc lộ trong tình huống nào? Tình cảm ấy có đặc điểm gì ở hoàn cảnh cụ thể lúc bấy giờ? (Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp?) Những chi tiết nghệ thuật nào chứng tỏ một cách sinh động. thú vị tình yêu làng và lòng yêu nước ấy (về tâm trạng, cử chỉ, lời nói ) Trong khi đó yêu cầu của dạng đề II (phân tích nhân vật, tác phẩm hay một khía cạnh về nhân vật, tác phẩm) là yêu cầu người viết tìm hiểu, đánh giá và nhận xét đầy đủ từng đặc điểm nhân vật, từng giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Đối với dạng đề III: Phân tích để nêu ra nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn đề, người giáo viên phải biết tích hợp các kiến thức chương trình Tập làm văn ở các lớp dưới để nâng cao yêu cầu giải quyết đề bài văn dạng này. Ví dụ đối với đề bài: “Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua tuyện ngắn: "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng (Sách giáo khoa Ngữ văn 9 trang 65 ), học sinh không phải đơn thuần tập trung phân tích những biểu hiện cụ thể tình cảm cha con của hai nhân vật ông Sáu và bé Thu mà còn phải trình bày những cảm nhận của mình về tình cảm cha con hết sức cảm động trong hoàn cảnh éo le của thời chiến tranh: chịu đựng nhiều thiệt thòi mất mát; khơi gợi nhiều xúc cảm cho người đọc niềm cảm động, khâm phục, quý mến Từ đó suy nghĩ về tình cảm cha con, tình cảm gia đình trong hoàn cảnh hiện tại: phải biết trân trọng, giữ gìn, vun đắp Từ việc phân tích ba dạng đề nêu trên, giáo viên giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích, tìm hiểu đề và biết vận dụng thành thạo, linh hoạt để hình thành những thao tác và kĩ năng phân tích đề chính xác, làm cơ sở cho việc tìm ý. Tuỳ theo yêu cầu của mỗi dạng đề (như nghị luận toàn bộ tác phẩm, nghị luận một vấn đề trong tác phẩm hay nghị luận có kết hợp giải quyết một vấn đề có liên quan) mà xác định nội dung và trình tự phân 9 Phương pháp dạy bài nghị luận truyện (đoạn trích) cho học sinh lớp 9. Viết về vấn đề gì? Viết về đối tượng nào? Viết cho ai? Viết như thế nào? Họ đã phải thay nghén tác phẩm truyện - đứa con tinh thần của họ - suốt bao tháng, bao năm. Họ đã phải chọn lựa từng hình ảnh có thực trong thực tế rồi khái quát lên thành nhân vật, dùng ngòi bút vẽ nên bức chân dung của xã hội sao cho phù hợp với từng thời điểm lịch sử. Họ phải nghiền ngẫm từng chi tiết, đắn đo từng câu, chữ, từng lời ăn tiếng nói, từng hành động của mỗi nhân vật đặt trong những tình huống cụ thể, mấu chốt của tác phẩm. Ví dụ với đề bài: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Nếu học sinh không đọc kĩ tác phẩm này, thì không thể tìm ra được những ý hay, ý đặc sắc. Các em sẽ dễ dàng rơi vào công thức chung chung, suy nghĩ hời hợt, không khám phá ra nét mới trong tình cảm đối với làng quê của nhân vật ông Hai. Đó là một trường hợp tiêu biểu cho những chuyển biến mới trong đời sống tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương là một đặc điểm có tính truyền thống nhưng nét đăc sắc ở đây là nhà văn Kim Lân, bằng vốn sống, vốn am hiểu về tâm lí của người nông dân đã đặt ông Hai vào một tình huống gay cấn, thử thách lòng yêu nước tuyệt đối của nhân vật, để buộc nhân vật phải đấu tranh tư tưởng gay go, quyết liệt để chọn lựa một trong hai giữa tình yêu làng và tình yêu nước, trung thành với kháng chiến, với Bác Hồ. Nếu học sinh không đọc kĩ từng trang truyện, thì làm sao thấu hiểu được nỗi lòng của ông Hai với cuộc đấu tranh nội tâm đau đớn, vật vã để cuối cùng nhân vật mới đi đến quyết định dứt khoát: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”. Rõ ràng để có được những suy nghĩ và nhận xét sâu sắc về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng làm sao các em có thể không đọc kĩ tác phẩm. Có đọc kĩ tác phẩm các em mới cảm thụ hết những tình huống thú vị , các chi tiết hay trong tác phẩm. Từ đó ý tứ mới tuôn trào, suy nghĩ về nhân vật mới sâu sắc. 11
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_day_bai_nghi_luan_truyen_d.doc