Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học kiểu bài nghị Luận văn học trong chương trình Ngữ văn Lớp 9
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học kiểu bài nghị Luận văn học trong chương trình Ngữ văn Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học kiểu bài nghị Luận văn học trong chương trình Ngữ văn Lớp 9
Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2013 - 2014 THÔNG TIN VỀ SÁNG KIẾN 1.Tên sáng kiến: Phương pháp dạy học kiểu bài nghị luận văn học trong chương trình Ngữ văn lớp 9 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn học Ngữ văn trong nhà trường. 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 20 tháng 9 năm 2013 đến ngày 15 tháng 3 năm 2014. 4. Tác giả: Họ và tên: Năm sinh: Nơi thường trú: Trình độ chuyên môn: Cử nhân cao đẳng. Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Địa chỉ liên hệ: Điện thoại: 5. Đồng tác giả: Không 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Địa chỉ: Điện thoại: SKKN: Tạo lập văn bản Nghị luận 1 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2013 - 2014 Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học" vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học văn. Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh, cụ thể là: - Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên dạy văn là nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ huynh đã chọn hướng cho con thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là nguy hại. - Khả năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa, lủng củng ...Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta. Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng thực tế hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ, mặc dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người. Muốn khôi phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, SKKN: Tạo lập văn bản Nghị luận 3 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2013 - 2014 III. CÁC GIẢI PHÁP 1. Mệnh lệnh của đề bài văn nghị luận văn học: * Phân tích: Nói tới phân tích tức là nói tới việc mỏ xẻ, chia tách đối tượng ra thành các phương diện, các bộ phận khác nhau để tìm hiểu, khám phá, cắt nghĩa. Cái đích cuối cùng là nhằm để tổng hợp, khái quát, chỉ ra được sự thống nhất. Như vậy, phân tích là yêu cầu phân tích tác phẩm để nêu ra nhận xét của nguwoif viết (người nói). * Suy nghĩ: Là nhận xét, nhận định, phân tích về tác phẩm của người viết ở góc nhìn nào đó về chủ đề, đề tài, hình tượng nhân vật, nghệ thuật * Cảm nhận: Là cảm thụ của người viết về một hay nhiều ấn tượng mà tác phảm để lại sâu sắc trong lòng người đọc về nội dung hay nghệ thuật hoặc cả nội dung và nghệ thuật. Như vậy, từ việc phân tích chỉ định về phương pháp, từ suy nghĩ nhấn mạnh tới nhận định, phân tích, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của người viết. nếu học sinh không hiểu thì đề bài yêu cầu gì đi nữa thì học sinh đều phân tích hết. 2. Định hướng về phương pháp tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm tự sự: Trong chương trình, học sinh học nghị luận văn học về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích; về một đoạn thơ, bài thơ. Riêng nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) có thể đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau như: về chủ đề, sự kiện, nhân vật, cốt truyện, nghệ thuậtGiáo viên cần tập trung vào nghị luận về nhân vật văn học theo định hướng của sách giáo khoa. Theo tôi, khi hướng dẫn học sinh phân tích nhân vật trong các tác phẩm truyện mỗi giáo viên cần nắm và hiểu rõ về nhân vật trong tác phẩm: Nhân vật trong tác phẩm tự sự bao giờ cũng mang tính cách số phận riêng. Muốn phân tích nhân vật ta phải căn cứ vào các chi tiết, phương diện liên quan đến nhân vật như: Lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, hành vi cử chỉ và nội tâm. SKKN: Tạo lập văn bản Nghị luận 5 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2013 - 2014 - Về ngôn ngữ nhân vật: Ngôn ngữ nhân vật cũng góp phần thể hiện trình độ văn hóa, tính cách nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật gồm: Ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Ví dụ 1: Trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, ngôn ngữ độc thoại nội tâm của ông Hai được nhà văn thể hiện qua đoạn văn: “ Chúng nó cũng là trẻ con làng việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn bằng ấy tuổi đầu” Đoạn văn đã diễn tả được nỗi xấu hổ nhục nhã của ông Hai khi nghe tin làng mình theo tây làm việt gian, vừa thể hiện một cách xúc động tình cảm chân thành của một người cha dành cho các con. Hay lời đối thoại của ông với thằng Húc con trai ông cũng hé lộ tình cảm của ông với kháng chiến, với CM và với cụ Hồ. Ví dụ 2: Trong truyện ngẵn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng lời đối thoại của bé Thu với Má và Bà ngoại gúp ta cảm nhận được phẩm chất, tính cách của bé Thu – một đứa bé hồn nhiên trong sáng nhưng rất ương ngạnh bướng bỉnh. - Về cử chỉ, hành động của nhân vật: Phẩm chất, tính cách của nhân vật cũng được thể hiện qua hành động và cử chỉ bởi lẽ nhân vật trong tác phẩm trước hết là con người của hành động và hành động của con người được thể hiện qua hành vi. Ví dụ: Trong Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa, hành động trao gói củ tam thất cho bác lái xe, bó hoa cho cô gái, ấm trà và làn trứng cho hai vị khách, cái nắm tay tạm biệt của anh thanh niên và cô gái tất cả những hành vi cử chỉ đó giúp người đọc cảm nhận đựơc lòng hiếu khách mến khách, sự quan tâm chu đáo và tình cảm chân thành mà các nhân vật đã dành cho nhau. - Về nội tâm của nhân vật: Là thế giới bên trong của nhân vật gồm: cảm xúc tình cảm, tâm lí, suy nghĩ của nhân vật. Nội tâm nhân vật có thể được miêu tả trực tiếp hoặc gián tiếp. Ví dụ: Trong truyện ngắn Làng nhà văn Kim Lân đã miêu tả nội tâm nhân vật ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo Tây qua đoạn văn: “Cổ ông lão SKKN: Tạo lập văn bản Nghị luận 7 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2013 - 2014 của thầy cô giáo. Học sinh biết sáng tạo khi làm bài, biết xây dựng đoạn, liên kết đoạn, biết xây dụng bố cục mạch lạc, rõ ràng, chặt chẽ. - Người giáo viên cần giúp học sinh xác định được trọng tâm kiến thức để học sinh nắm được vấn đề đặt ra trong tác phẩm mà từ đó có cách viết, cách thể hiện cảm xúc của mình khi tạo lập văn bản. * Các bước làm bài văn nghị luận về tác phẩm trữ tình: a. Tìm hiểu đề: Đây là bước đầu tiên và rất quan trọng nhưng từ xưa đến nay nhiều khi học sinh thường bỏ qua dẫn đến tình trạng làm lệch hướng, lạc thể loại của đề bài yêu cầu (lạc đề). Vậy, chúng ta phải làm thế nào? - Xác định thể loại, kiểu bài nghị luận? (chú ý từ: suy nghĩ, phân tích, cảm nhận để thực hiện đúng phương pháp làm bài) - Tìm nội dung bàn luận? (Nội dung và nghệ thuật bài thơ, đoạn thơ? Hoặc nét đặc sắc về nghệ thuật trong bài thơ...hay một khía cạnh nào đó của bài thơ, đoạn thơ) - Tìm phạm vi kiến thức để phục vụ cho vấn đề bàn luận mà đề yêu cầu? (tác phẩm nào? Của ai? Hoặc kiến thức thuộc lĩnh vực nào?... Ví dụ: Đề bài: Phân tích cái hay, cái đẹp của đoạn thơ sau: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Mà sao nghe nhói ở trong tim” (“Viếng lăng Bác” Viễn Phương - Ngữ văn 9 tập 2) * Đề bài trên thuộc thể loại nghị luận gì? * Nội dung nghị luận là vấn đề gì? * Phạm vi kiến thức nằm ở tác phẩm nào? b. Tìm ý: Tức là tìm những ý chính cần triển khai trong bài văn - Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ phải tìm hiểu nhà thơ, cuộc đời sự nghiệp, phong cách sáng tác, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, đặc biệt phải bám sát bố cục của bài để tìm luận điểm. - Một bài nghị luận tác phẩm văn học nói chung và nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cần phải xác định rõ ràng các ý có bản của đề bài qua đó giúp người viết SKKN: Tạo lập văn bản Nghị luận 9 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2013 - 2014 Ví dụ 2: Phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh. - Hữu Thỉnh vốn rất gắn bó với cuộc sống nông thôn. Ông có nhiều bài thơ hay về con người và cuộc sống nông thôn, về mùa thu. - Bài thơ “Sang thu” được Hữu Thỉnh sáng tác gần cuối năm 1977, giới thiệu lần đầu tiên trên báo Văn nghệ. Bài thơ là những cảm nhận, suy tư của nhà thơ về sự biến chuyển của đất trời từ hạ sang thu. Từ hai đề trên, giáo viên cho học sinh đối chiếu với phần mở bài ở tùng kiểu bài thì học sinh dễ dàng viết đoạn mở bài. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh các cách mở bài khác nhau: đi từ đề tài, cảm xúc, nhân vật, tác giả, tác phẩm để khuyến khích sự sáng tạo của học sinh trong quá trình tạo lập văn bản. 2. Thân bài: - Phần phân tích: Đối với kiểu bài phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự. Học sinh có thể chọn bố cục bài viết một cách sáng tạo khác nhau (phân tích theo trình tự diễn biến truyện để phát hiện về ngoại hình và đặc điểm tính cách của nhân vật hoặc phân tích từng đặc điểm của nhân vật), nhưng việc phân tích phải hướng vào yêu cầu của đề. Phần thân bài có nhiều đoạn văn, có thể mỗi đoạn văn là một luận điểm, nội dung các đoạn văn được trình bày theo bằng nhiều cách khác nhau ( diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp); giữa các đoạn văn phải có sự liên kết về nội dung và hình thức. Đoạn văn thực hiện như sau: (1) Câu chủ đề luận điểm -> (2) Dẫn chứng lấy từ tác phẩm (chọn 1 hoặc 2 dẫn chứng) -> phân tích, nhận xét, đánh giá từ dẫn chứng để làm sáng tỏ ý đã nêu ở câu chủ đề. Các câu này phải viết thành đoạn văn. SKKN: Tạo lập văn bản Nghị luận 11 Giáo viên: Trần Văn Quang Trường THCS Thọ Nghiệp Năm học: 2013 - 2014 + Phát hiện các dấu hiệu nghệ thuật và phân tích nghệ thuật ấy (chú ý vào các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu đặc sắc: các phép tu từ, kiểu câu, từ ngữ, cảm xúc, trí tưởng tượng có tác dụng diễn tả tư tưởng tình cảm của nhà thơ) + Đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, khổ thơ. Ví dụ : Phân tích khổ thơ : Trăng cứ tròn vành vạnh ... đủ cho ta giật mình. (Nguyễn Duy – Ánh trăng) Phân tích: Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí: Ánh trăng “tròn vành vạnh” là trăng rằm, tròn đầy, một vẻ đẹp viên mãn. “im phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “kể chi người vo tình”. Ánh trăng “tròn vành vạnh” tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ, cho sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn. “Ánh trăng im phăng phắc” là hình ảnh nhân hóa, chính là người bạn – nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc đang nhắc nhở con người. Hình ảnh thơ có sự đối lập giữa người và trăng: trăng lặng im- con người giật mình. Cái giật mình đó là phản ứng rất tự nhiên của con người khi nhận ra lỗi lầm của mình. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn luôn tròn đầy thủy chung, nhân hậu bao dung. - Phần đánh giá: Phần đánh giá bao gồm đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ hay nội dung nghệ thuật của tác phẩm truyện hoặc đoạn trích. Đây là phần không thể thiếu của kiểu bài nghị luận văn học. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh kỹ năng đánh giá nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm văn học. Cụ thể là: + Đối với tác phẩm thơ: Cần đánh giá về thể thơ, từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu, các biện pháp tu từ, cảm xúc, trí tưởng tượng, sự liên tưởng... SKKN: Tạo lập văn bản Nghị luận 13 Giáo viên: Trần Văn Quang
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_day_hoc_kieu_bai_nghi_luan.doc