Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy từ ngữ trong tác phẩm thơ Ngữ văn 9

pdf 11 trang sklop9 13/06/2024 880
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy từ ngữ trong tác phẩm thơ Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy từ ngữ trong tác phẩm thơ Ngữ văn 9

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy từ ngữ trong tác phẩm thơ Ngữ văn 9
 1 
 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 
 Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 
 ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN 
 Kính gửi: - Hội đồng Sáng kiến ngành Giáo dục – Đào tạo thị xã Bình 
 Long, tỉnh Bình Phước. 
 Tôi ghi tên dưới đây: 
 STT Họ và tên Ngày Nơi công tác Chức Trình độ Tỉ lệ 
 tháng năm danh chuyên môn (%) 
 sinh đóng 
 góp vào 
 việc tạo 
 ra sáng 
 kiến 
 1 NGUYỄN THỊ 27/07/1983 Trường TH- Giáo Đại học sư 
 HỒNG CHUYÊN THCS Thanh viên phạm Ngữ 100% 
 Lương THCS văn 
 1. Là tác giả đề nghị công nhận sáng kiến: “Phương pháp dạy từ ngữ 
 trong tác phẩm thơ Ngữ văn 9”. 
 2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng 
 kiến. 
 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (môn Ngữ văn 9) 
 4. Ngày áp dụng sáng kiến lần đầu: tháng 9 năm học 2020- 2021 
 5. Mô tả bản chất của Sáng kiến: 
 5.1 Tính mới của sáng kiến 
 Việc dạy từ ngữ trong quá trình phân tích, bình giảng các tác phẩm văn học 
có một vai trò quan trọng. Đây là một trong những việc giúp làm nổi bật giá trị của 
các tác phẩm, làm cho học sinh cảm nhận sâu sắc hơn các tác phẩm văn học để từ đó 
có thể bình giá các từ ngữ có giá trị mà các nhà thơ, nhà văn đã sử dụng trong các tác 
 3 
mua được sách thì cũng chưa chịu khó học, còn thụ động trong cách cảm thụ, chưa 
có sự tìm tòi sáng tạo, tự phát hiện một câu, một từ “đắt” trong đoạn thơ, bài thơ. 
Bởi vậy không thể chiếm lĩnh tác phẩm một cách sâu sắc, chưa hiểu hết được ý đồ, 
thông điệp của tác giả, chưa cảm nhận được hết nội dung nghệ thuật, chủ đề tư 
tưởng được tác giả khơi dậy, gửi gắm trong bài thơ. 
 5.2.2 Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục các nhược điểm nêu trên: 
 Theo Trần Thanh Bình “Phân tích từ ngữ trong giảng văn thực chất là chỉ cho 
học sinh thấy được nội dung mà người viết muốn truyền đạt qua từ ngữ đó, đồng 
thời thấy được giá trị nghệ thuật của từ ngữ đó khi tham gia xây dựng các hình 
tượng và bộc lộ chủ đề tư tưởng của tác phẩm”. Xuất phát từ điều đó, chúng ta có 
thể thấy rằng: dạy từ ngữ trong tác phẩm thơ hay phân tích từ ngữ trong tác phẩm 
thơ là vấn đề quan trọng trong môn Ngữ văn bậc trung học cơ sở nói riêng trong 
trường phổ thông nói chung. Đặc biệt trong Ngữ văn 9, phần thơ là một nội dung 
quan trọng, chiếm tỉ lệ lớn trong các văn bản được trích học, đồng thời đây là 
nguồn ngữ liệu để học phần Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Vì vậy giáo viên 
cần hướng dẫn để học sinh khai thác được cái hay, cái đẹp, nội dung chủ đề tư 
tưởng tác giả muốn nói đến trong tác phẩm, tránh được những khuynh hướng ấn 
tượng chủ quan hay suy diễn mơ hồ Để đạt được điều đó chúng ta có thể tiến 
hành theo những biện pháp sau: 
 a. Hướng dẫn học sinh đọc, tiếp xúc tác phẩm 
 Dạy tác phẩm thơ nói riêng, dạy tác phẩm văn học nói chung cần đặc biệt 
quan tâm tới việc tạo điều kiện cho học sinh qua tiếp cận từ ngữ, lời thơtái hiện 
được hình tượng nghệ thuật, nội dung tác phẩm trong tâm trí học sinh, nghĩa là làm 
cho hiện tượng hiện lên dưới dạng là một hiện tượng tái hiện. Nhiệm vụ then chốt 
trước hết của giáo viên là giúp cho các em biết tự đọc tác phẩm, biết tái hiện hình 
tượng nội dung chứa đựng trong tác phẩm, để trên cơ sở đó, giúp các em cảm nhận 
được cái hay, cái đẹp của nó. Đó là một trong những hoạt động cơ bản trong cơ cấu 
của dạy và học Văn, vì vậy dạy tác phẩm thơ cũng không ngoại lệ. 
 Hướng dẫn học sinh tự đọc trước bài ở nhà. 
 Thứ nhất giáo viên cần rèn cho học sinh thái độ tự tìm tòi kiến thức văn bản thơ 
trước khi đến lớp.Ví dụ sau tiết “ Chương trình địa phương” ( Phần văn- tiết phân 
phối chương trình tiết 40) giáo viên cần nhắc nhở học sinh soạn bài “Đồng chí” 
với các yêu cầu cụ thể sau: 
 - Học sinh tự đọc văn bản, chú ý các ngữ liệu: tác giả, tác phẩm, chú thích 
 - Đọc và định hướng soạn các câu hỏi trong sách giáo khoa. 
 5 
 Bên trời góc bể bơ vơ 
 Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. 
 - Tại sao khi nhở về chàng Kim Trọng, Nguyễn Du lại sử dụng từ “ Tưởng”? 
Từ ngữ này có mối quan hệ như thế nào trong cảm xúc của nhân vật? Học sinh sẽ 
có nhiều ý kiến khác nhau: Ví dụ có em giải thích từ “ Tưởng” theo cách hiểu: nghĩ 
ra, liên tưởng, nhớ nhung; có em sẽ giải thích rằng đó là tưởng tượng,ám 
ảnhGiáo viên cho học sinh thấy mối liên hệ giữa cách sử dụng từ ngữ với ngữ 
cảnh, giúp thể hiện tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình. 
 * Hay cũng trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” này với 8 câu thơ 
cuối: 
 “Buồn trông cửa bể chiều hôm 
 .. 
 Buồn trông gió cuốn mặt duềnh 
 Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi 
 Em hiểu như thế nào về câu “Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”? 
 Tại sao Nguyễn Du không dùng từ “reo” mà lại dùng từ “kêu”, từ đó có 
nghĩa như thế nào? 
 - Câu thơ vẽ ra một cảnh tượng, tâm trạng hãi hùng, lo sợ trước những tai 
họa...như báo trước giông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời 
Kiều. 
 - Nghe tiếng ầm ầm của sóng không phải sóng “reo” mà sóng “kêu”. Tiếng 
“kêu" của tiếng sóng nhưng đó cũng là tiếng “kêu” của tiếng lòng, số phận của con 
người. Kiều đã ở hẳn vào cái vòng vây không thể nào tháo gỡ. Lưới trời kia đã trói 
chặt cánh chim, cái không gian dài rộng kia không những không hùng vĩ mà trở 
nên ngậm ngùi, đắng cay, xót tủi. Và, quả thực, ngay sau lúc này, Thúy Kiều đã 
mắc lừa Sở Khanh để rồi rấn thân vào cuộc đời “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai 
lần”. 
 * Hay trong “ Viếng lăng Bác” có câu: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác. 
 Trong quá trình phân tích, giáo viên gợi dẫn học sinh suy nghĩ: Tại sao nhà 
thơ Viễn Phương không dùng từ “ cháu” mà sử dùng từ “ con”?; không dùng từ “ 
viếng” mà dùng từ “thăm”? 
 +Cách sử dụng từ ngữ xưng hô “ con” vừa thể hiện sắc thái riêng bởi nhà thơ 
là một người con miền Nam, đồng thời cách xưng “ con”- gọi “Bác” để tạo sự 
 7 
 + Từ “nắng mưa” trong ngữ cảnh này là một hình ảnh ẩn dụ - thể hiện cuộc 
đời của bà trải qua biết bao thăng trầm, rằng cuộc đời của bà đầy những gian lao, 
cơ cực.. 
 - Bài “ Mùa xuân nho nhỏ” có những câu thơ mở đầu: 
 Mọc giữa dòng sông xanh 
 Một bông hoa tím biếc. 
 Theo em tại sao tác giả đặt động từ “ Mọc” lên đầu câu? Với ý hỏi này học 
sinh có thể nêu ý kiến của mình. Học sinh phải hiểu rằng cách nói đảo ngữ ấy gợi 
ấn tượng đậm nét về vẽ đẹp và sức sống của bông hoa. Bông hoa như vươn mình, 
xoè nở giữa dòng sông, tạo điểm nhấn của bức tranh thiên nhiên. Cách dùng từ 
“Mọc” ấy không chỉ thể hiện tài năng văn chương mà còn thể hiện một trái tim tinh 
tế, biết phát hiện và cảm nhận vẻ đẹp cuộc sống mang lại trong hoàn cảnh rất đặc 
biệt ấy của tác giả. 
 d. Phân tích những từ ngữ thơ gắn liền với hoàn cảnh ra đời của tác 
phẩm. 
 * Trong bài “ Sang thu” Hữu Thỉnh có viết: 
 Sấm cũng bớt bất ngờ 
 Trên hàng cây đứng tuổi” 
 - Theo em “ Sấm, hàng cây” ở đây có nghĩa là gì? Tác giả sử dụng hình thức 
nghệ thuật nào để thể hiện tư tưởng của tác phẩm trong hoàn cảnh ra đời của tác 
phẩm? 
 + Bài thơ ra đời năm 1977 thì ta thấy “ Sấm, hàng cây” ngoài ý nghĩa tả 
thực về sự chuyển mình của thiên nhiên từ hạ sang thu, tác giả còn cho chúng ta 
thấy ý nghĩa tượng trưng. “Sấm” tượng trưng cho những tác động của ngoại cảnh, 
“hàng cây đứng tuổi” ý chỉ những con người từng trải. Vậy ta có thể hiểu khi con 
người từng trải qua thử thách , khó khăn của cuộc đời thì càng trở nên có kinh 
nghiệm, càng đứng vững trước tác động của ngoại cảnh. Hình ảnh “ hàng cây đứng 
tuổi” đặt ở vị trí cuối bài thơ vốn là vị trí rất quan trọng để mở ra cánh cửa khác 
dẫn ta sang thế giới của hồn người, của cuộc đời. 
 Trong “ Ánh trăng”, Nguyễn Duy viết: 
 Trăng cứ tròn vành vạnh 
 kể chi người vô tình 
 ánh trăng im phăng phắc 
 đủ cho ta giật mình. 
 9 
 Trên đây chỉ là số ít biện pháp trong nhiều biện pháp dạy tác phẩm thơ mà 
 bản thân tôi đã tích lũy được trong nhiều năm giảng dạy. Đồng thời, số từ minh họa 
 chỉ là số ít từ trong một đoạn trích, một bài thơ; số đoạn trích, số bài thơ minh họa 
 chỉ là số ít với khối lượng tác phẩm thơ rất lớn trong chương trình Ngữ văn 9.. 
 Nhưng đó chính là biện pháp khả thi, hữu hiệu để giáo viên giúp học sinh rèn luyện 
 cách cảm thụ, lĩnh hội được cái hay, cái đẹp, hiểu sâu sắc giá trị nội dung, nghệ 
 thuật và lột tả được cái “thần” mà tác giả muốn nói đến trong bài thơ góp phần 
 nâng cao chất lượng môn học. 
 5.3. Khả năng áp dụng của Sáng kiến: 
 Sáng kiến đã được áp dụng vào thực tế giảng dạy đối với các tác phẩm thơ 
 lớp 9 của bản thân tôi. 
 Sáng kiến này cũng có thể áp dụng nhân rộng đối với toàn thể giáo viên đang 
 giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 9 của Trường TH – THCS Thanh Lương và trong 
 tất cả các trường nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. 
 6. Các thông tin cần bảo mật: không 
 7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng Sáng kiến: 
 - Áp dụng trong dạy học tác phẩm thơ trong Ngữ văn 9. 
 - Học sinh cần đọc kĩ bài thơ và soạn bài ở nhà. 
 8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng 
kiến: 
 8.1. Theo ý kiến của tác giả: 
 Khi áp dụng Sáng kiến với các giải pháp dạy từ ngữ trong tác phẩm thơ, học 
 sinh đã có sự chuyển biến tích cực. Bởi dạy tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm 
 thơ nói riêng đã giúp người học lĩnh hội và cảm thụ được nội dung và nghệ thuật 
 của tác phẩm, khắc phục được cách hiểu hời hợt, diễn thơ theo diễn văn xuôi. Bản 
 thân học sinh cũng biết tự tìm thấy được cái hay, cái đẹp, cái thông điệp mà nhà thơ 
 muốn gửi gắm trong tác phẩm của mình. Học sinh đã có ý thức tìm hiểu những từ 
 ngữ quan trọng trong câu thơ, trong đoạn thơ, biết phát hiện và hiểu được cái 
 “thần” trong bài thơ và hứng thú hơn với tiết học. Nhờ đó mà cách tiếp cận, cách 
 chiếm lĩnh tác phẩm của học sinh được nâng lên, cách cảm nhận nội dung trong bài 
 thơ sâu sắc hơn, nắm bắt đúng tư tưởng chủ đề của tác phẩm cho nên cách diễn đạt, 
 cách viết của học sinh linh hoạt hơn, có sự sáng tạo hơn. Chất lượng bộ môn ngày 
 11 
 Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và 
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. 
 Thanh Lương, ngày tháng 12 năm 2020 
 Người nộp đơn 
 Nguyễn Thị Hồng Chuyên. 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_day_tu_ngu_trong_tac_pham.pdf