Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh Lớp 9 qua hoạt động nhóm trong tiết đọc - Hiểu văn bản và tiết luyện nói
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh Lớp 9 qua hoạt động nhóm trong tiết đọc - Hiểu văn bản và tiết luyện nói", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh Lớp 9 qua hoạt động nhóm trong tiết đọc - Hiểu văn bản và tiết luyện nói
Sáng kiến kinh nghiệm phần Nghe - nói PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ. I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận của đề tài. Chương trình Ngữ văn mới (đang áp dụng từ năm học 2021 – 2022 này đối với lớp 6) đã rất chú trọng hoạt động nghe – nói – đọc - viết của học sinh, mà các em lớp 9 năm nay, khi vào lớp 10 (năm học 2023 – 2024) sẽ học sách mới đầu tiên của chương trình PTTH. Vì vậy việc rèn cho các em kỹ năng nghe – nói – đọc - viết cho học sinh lớp 9 từ bây giờ là vô cùng quan trọng để các em có thể tự tin thực hiện hoạt động nghe, nói, thuyết trình ở lớp 10 sắp tới. Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Nếu người thầy đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động khám phá chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, thì người học (học sinh) phải tự mình bộc lộ sự hiểu biết, phải biết phát triển tư duy thành lời - ngôn bản. Muốn cho người nghe hiểu cho được thì người nói phải nói cho tốt, có nghĩa là nói phải mạch lạc, logic, phải bảo đảm các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử chỉ, nét mặt, âm lượng Vì thế, luyện nói là việc rất quan trọng trong quá trình dạy- học văn, là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Luyện nói tốt sẽ giúp người học sẽ có được một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội. 2. Cơ sở thực tiễn của đề tài. Nơi tôi giảng dạy là trường thuộc địa bàn nông thôn, đa số học sinh chưa được bố mẹ quan tâm nhiều đến việc học. Thời gian học tập của các em hạn chế, bởi vì ngoài học, các em còn nhiều công việc của gia đình nên có phần ảnh hưởng đến việc học. Hơn nữa, các em có vẻ xem nhẹ hoạt động nói trong giờ học, kỹ năng nói trước tập thể hạn chế, rất ngại nói, không tự tin khi nói trước đông người. Và ở một vài giáo viên, việc dạy tiết Đọc-hiểu văn bản rơi vào đơn điệu, nhàm chán bởi giáo viên chỉ sử dụng hệ thống câu hỏi phát vấn, đàm thoại. Những học sinh phát biểu đa số là học sinh khá giỏi. Còn những học sinh trung bình, yếu kém thì vẫn cứ trầm lặng, nhút nhát việc tạo hứng thú cho những đối tượng này hầu như không có. Và như thế nhiều học sinh không có cơ hội để rèn kĩ năng nói. Khi giáo viên có sự đầu tư cho tiết dạy và hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị chu đáo thì việc tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm trong giờ học tiết đọc-hiểu văn bản cũng như trong tiết luyện nói đạt hiệu quả cao. Không khí học tập của học sinh khác hẳn khi GV (giáo viên) thuyết giảng. Ở các em lộ rõ sự thích thú, đa số các thành viên trong nhóm có vẻ háo hức và nói một cách tự nhiên. Tất cả như có một luồng điện vô hình nào đó được lan truyền cho cả lớp làm nóng lên không khí học tập. Nhiều em giơ tay xin được trình bày kết quả thảo luận, được trình bày những điều mà nhóm đã phát hiện, cảm nhận tổng hợp và thật là thoả mãn với những kiến thức được chắc lọc rút ra từ chính sự hiểu biết của các em. Đó cũng là lúc GV cho các em thêm sự tự tin vào khả năng của mình, các em sẽ cố gắng hơn để được phát biểu, nói trước lớp trong lần sau. Đây năm học 2022 – 2023 này. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp điều tra, nghiên cứu khác nhau. Sau đây là một vài phương pháp tiêu biểu: + Phương pháp quan sát và thu thập thông tin giúp tôi biết được thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. + Phương pháp điều tra thông qua phiếu điều tra và hoạt động giao tiếp nhằm tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn cũng như những mong muốn của học sinh trong tiết học luyện nói cũng như trong những giờ thảo luận nhóm. + Phương pháp phân tích, phân loại áp dụng trong việc giải quyết các tình huống sư phạm gặp phải, phân tích bản chất hiện tượng, phân nhóm hoạt động cho học sinh + Phương pháp tổng hợp áp dụng trong việc tổng hợp kết quả điều tra, kết quả nghiên cứu + Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ sự tiến bộ (kết quả) trước và sau khi áp dụng đề tài trong dạy học. + Lắng nghe, khen thưởng, động viên kịp thời cũng là một phương pháp đem lại hiệu quả trong việc khích lệ hứng thú học tập cho học sinh. V. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU. - Xác định rõ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài. Đối tượng áp dụng và thử nghiệm nội dung, phương pháp của đề tài, - Điều tra đối tượng: Thông qua quá trình giảng dạy để điều tra về khả năng nhận thức, kỹ năng nói của học sinh đặc biệt trong các giờ luyện nói. - Thời gian nghiên cứu của đề tài: Chủ yếu là 2 năm học 2021 – 2022 và 2022 – 2023. Tuy nhiên quá trình quan sát thực tế và tìm hiểu thực trạng liên quan đến vấn đề được tiến hành trong nhiều năm giảng dạy trước đó. - Bảng phụ (mỗi nhóm có một bảng phụ). b. Chia nhóm: - Để tiện hoạt động thảo luận, tôi chia lớp làm 6 nhóm, mỗi nhóm 6 - 8 em liền kề nhau, đưa ra các câu hỏi thảo luận ngắn trong một tiết học văn bản hoặc tiếng Việt. - Đối với tiết luyện nói, chia lớp làm 4 nhóm, mỗi nhóm từ 8 - 10 em. Trong mỗi nhóm cử ra một em viết chữ rõ ràng chịu trách nhiệm ghi vào bảng phụ sau khi đã thống nhất ý kiến trong nhóm. Các em còn lại trong nhóm đều ghi vào vở soạn của mình ý kiến thống nhất của nhóm. c. Ý thức chuẩn bị bài ở nhà và ở lớp: - Chuẩn bị bài mới ở nhà: Theo yêu cầu của GV mà các em có thể chuẩn bị từng cá nhân hoặc chuẩn bị theo nhóm. Với tiết Luyện nói phải soạn một dàn ý chi tiết và phải dự kiến lời nói dựa vào dàn ý đó. - Trong giờ truy bài 15 phút, học sinh trong các nhóm hội ý, trao đổi những vướng mắc băn khoăn trong quá trình chuẩn bị, tiến hành tập nói trong nhóm. - Hoạt động trong giờ học: thảo luận nhóm, trình bày bài nói. d. Phiếu đánh giá nhận xét (dành cho phần luyện nói). Mỗi em phải có phiếu nhận xét trong sổ tay. Sổ này dùng cho suốt năm học. Ngày: Môn: Họ và tên (người nói): Phần nhận xét, đánh giá: - Tác phong nói: - Giọng nói: - Nội dung nói: 1.2. Yêu cầu đối với giáo viên: - Chuẩn bị bài thật chu đáo trước khi lên lớp nói chung và nhất là cho những tiết rèn cho học sinh kĩ năng nói. - Dặn dò học sinh cụ thể các nội dung chuẩn bị cho bài luyện nói. - Chú ý, theo dõi và ghi chép những vấn đề cần nhận xét đối với học sinh trong quá trình luyện nói. - Luôn tìm ra những ưu điểm trong phần trình bày của từng học sinh và khen các em kịp thời trước lớp để - Ở bài: “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”, trong quá trình phân tích ở ý 3 (Chiến tranh hạt nhân là cực kỳ phi lý) sẽ cho HS thảo luận câu hỏi: “Theo tác giả, trái đất chỉ là cái làng nhỏ trong vũ trụ nhưng lại là nơi độc nhất có phép mầu của sự sống trong hệ mặt trời. Em hiểu như thế nào về ý nghĩ ấy?” (Trong vũ trụ, trái đất chỉ là một hành tinh nhỏ nhưng là hành tinh duy nhất có sự sống. Khoa học chưa khám phá được sự sống ở nơi nào khác ngoài trái đất. Đó là sự thiêng liêng kỳ diệu của trái đất nhỏ bé của chúng ta ). - Ở bài: “Tuyên bố về sự sống còn quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em”, tìm hiểu nội dung ở phần 2, cho HS thảo luận câu: “Theo em, những nỗi bất hạnh mà trẻ em thế giới phải chịu có thể giải quyết bằng cách nào?” (Loại bỏ chiến tranh, bạo lực, xóa bỏ đói nghèo) - Ở bài: “Chuyện người con gái Nam Xương”, ở cuối bài ta có thể cho HS thảo luận câu: “Một con người có phẩm chất tốt đẹp, khát khao hạnh phúc gia đình như Vũ Nương đã từ chối nhân gian. Điều đó giúp em hiểu gì về hiện thực cuộc sống và hạnh phúc của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến?” (Hiện thực cuộc sống áp bức bất công. Trong cuộc sống ấy những con người bé nhỏ, đức hạnh không thể tự bảo vệ được hạnh phúc chính đáng của mình). - Ở bài “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, sau khi cho HS phát hiện những cảnh được gợi tả ở 8 câu cuối, cho HS thảo luận: “Mỗi cảnh được diễn tả bằng một cặp câu thơ lục bát gợi liên tưởng đến thân phận và nỗi buồn riêng của Kiều. Hãy diễn giải điều này trên từng nét cảnh?” (HS phân tích từng cặp câu) - Ở bài “Đồng chí”, cho HS đọc khổ 2 và thảo luận câu hỏi: “Em cảm nhận được vẻ đẹp nào của tình đồng chí?” (Vẻ đẹp của tình yêu thương mộc mạc, chân thành, thắm thiết, đồng cam cộng khổ chia nhau cái chết nơi chiến hào) - Ở bài “Đoàn thuyền đánh cá”, cuối bài có thể cho HS thảo luận câu: “Theo em, nhờ đâu nhà thơ sáng tác nên bài thơ Đoàn thuyền đánh cá với những câu thơ hấp dẫn như vậy?” (Trực tiếp quan sát; dồi dào trí tưởng tượng; tấm lòng tha thiết với vẻ đẹp và sự giàu có của đất nước) - Ở bài “Bếp lửa”, cho HS thảo luận: “Khi viết lời thơ: Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở / Sáng mai này bà nhóm bếp lên chưa?, người cháu muốn nhắc bà nhóm lửa hay nhắc ai? Nhắc điều gì?” (Tự nhắc mình không được quên những lận đận đời bà, không được quên tấm lòng ấm áp của bà, không được quên sự tận tụy hy sinh và tình nghĩa của bà) - Ở bài “Lặng lẽ Sa Pa”, ở cuối bài cho HS thảo luận câu: “Vì sao tác giả không đặt tên cụ thể cho từng nhân vật của mình mà chỉ gọi theo giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp?” (Để ca ngợi những con người có phẩm chất tốt đẹp ở mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề, những con người âm thầm lặng lẽ cống hiến cho tổ quốc, làm tăng thêm sức khái quát của truyện). - Ở bài “Chiếc lược ngà” khi tìm hiểu nhân vật bé Thu, có thể cho HS thảo luận câu: “Bé Thu đã không nhận Ba vì vết sẹo trên mặt ông Sáu, nhưng cũng từ vết sẹo ấy, Thu đã nhận ra người cha yêu quí của mình. Theo em, có thể hiểu như thế được không? Vì sao?” (Được, vì Thu sợ vết sẹo do chưa biết ông Sáu là cha mình. Khi biết ba mình là Ông Sáu, Thu đã hôn lên vết sẹo trên má ba nó. Đó là tình cảm ruột thịt...). Hay câu: “Đọc Chiếc lược ngà, em cảm nhận được vẻ đẹp nào trong tình cảm cha con Bé Thu?” (Tình cha con sâu nặng, bền chặt dù trong hoàn cảnh éo le). - Ở bài “Bàn về đọc sách”, sau khi tìm hiểu văn bản, cho HS thảo luận câu: “Những lời bàn trong văn bản “Bàn về đọc sách” cho ta những lời khuyên bổ ích nào về sách và việc đọc sách?” (Sách là tài sản tinh thần quí giá của nhân loại. Muốn có học vấn phải đọc sách. Biết cách đọc sách thì mới tích lũy và nâng cao học vấn). Hay là câu: “Cách viết văn nghị luận trong bài “Tiếng nói của văn nghệ” có gì giống và khác so với bài “Bàn về đọc sách”? (giống: đều là lập luận từ các luận cứ giàu lý lẽ, dẫn chứng xác thực; khác: tiếng nói văn nghệ là bài nghị luận văn học nên có sự tinh tế trong phân tích, sắc vững ý kiến chung của tổ. Hết thời gian thảo luận, gọi một em đại diện trong nhóm trả lời. Khi có một em nói, cả lớp sẽ theo dõi, ghi nhận xét vào phiếu. Mỗi một em trình bày xong, GV sẽ chỉ định một em nhận xét đánh giá (có thể 2-3 em nhận xét). Sau khi các nhóm trình bày xong, GV cho một em khá hoặc giỏi nói lại toàn bài cho cả lớp nghe. Cuối cùng giáo viên góp ý bổ sung để lớp rút kinh nghiệm. * Các bước thực hiện trong tiết luyện nói tôi tiến hành theo trình tự sau đây: - Bước 1: Kiểm tra việc chuẩn bị bài luyện nói của học sinh (2 phút) - Bước 2: GV cùng HS tìm hiểu đề và xây dựng dàn bài đại cương (3 phút) - Bước 3: GV nêu yêu cầu về hình thức, nội dung nói và các yêu cầu khác (2 p) - Bước 4: HS luyện nói trong nhóm (10 phút) - Bước 5: HS luyện nói trước lớp (20-25 phút) - Bước 5: Giáo viên tổng kết tiết luyện nói (3 phút). Đối với lớp 9, có 2 bài luyện nói. Đó là: Luyện nói về tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm; Luyện nói về văn nghị luận: Nghị luận về một đoạn thơ - bài thơ. Trong giờ luyện nói, tôi chú ý nhắc nhở HS mấy điểm sau: - Phải soạn bài ở nhà trước, soạn một dàn ý chi tiết và tự tập nói trước ở nhà cho suôn sẻ, mạch lạc. - Khi nói trước tổ, nhóm phải rõ ràng, mắt tập trung hướng vào người nghe. - Không cười đùa trong khi trình bày bài nói. d. Định hướng dàn ý cho tiết luyện nói. Ở bài luyện nói thứ nhất: Tiết 81,82 (Tự sự kết hợp nghị luận và miêu tả nội tâm) Có thể chọn 1 trong 3 đề có ở sách giáo khoa phần luyện tập. Tôi chọn đề 3: “Dựa vào nội dung phần đầu tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đến chỗ trót đã qua”. Hãy đóng vai Trương Sinh kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm ân hận.” Trước khi tiến hành luyện nói, Giáo viên kiểm tra vở soạn của HS; các em trình bày dàn ý vào bảng phụ, sau đó GV chốt lại rồi đưa ra bảng phụ (màn chiếu) mình đã chuẩn bị sẵn cho HS theo dõi để luyện nói và hướng dẫn HS : - Phải xác định ngôi kể cho phù hợp (tôi) - Phải hóa thân vào Trương Sinh kể lại câu chuyện theo trình tự. - Các nhân vật và các sự việc còn lại chỉ có vai trò như một cái cớ để nhân vật “tôi” giải bày tâm trạng của mình. Dàn ý bài nói. * Mở bài: Giới thiệu về bản thân, xin phép kể chuyện (tôi tên, tôi xin kể). * Thân bài:
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ren_luyen_ky_nang_noi_cho_hoc_sinh_lop.pdf