Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Lịch sử 9
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Lịch sử 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Lịch sử 9
Giáo viên: Nguyễn Thị Thủy Năm học: 2011-2012 Trường THCS Hồng Thủy Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Lịch sử 9 A. MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Lịch sử là một một môn học đặc thù với những chuỗi sự kiện, diễn biến đã diễn ra trong quá khứ. Vì vậy, nhiệm vụ của dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Đây là môn học yêu cầu người học là phải “Biết sự kiện - Hiểu sự kiện – Nhớ sự kiện”, từ đó có sự phân tích, tư duy lôgic, khái quát, và đánh giá sự kiện. Tuy nhiên, các đồ dùng dạy học truyền thống hiện nay còn rất nhiều hạn chế, chưa thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của bộ môn và yêu cầu của quá trình đổi mới phương pháp dạy học bộ môn lịch sử. Trong việc khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách sinh động thì phương tiện trực quan là một yếu tố hết sức cần thiết. Do đó, bên cạnh ứng dụng công nghệ thong tin vào giảng dạy thì việc sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy và học là phương pháp tối ưu nhằm phát huy tính tích cực và khả năng tư duy của học sinh. Trước thực tiễn đó, với sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã mạnh dạn sử dụng Bản đồ tư duy vào việc nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn Lịch sử trong nhà trường. Với mong muốn việc sử dụng Bản đồ tư duy được mở rộng trong nhà trường và trong toàn ngành, đó là lý do tôi chọn đề tài “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Lịch sử lớp 9”. II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI Với đề tài này, tôi muốn tìm hiểu thực trạng dạy học lịch sử lớp 9 ra sao? Trên cơ sở đó tôi sử dụng phương pháp dạy học mới đó là “ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Lịch sử lớp 9” theo hướng tích cực giúp cho giáo viên và học sinh yêu thích môn lịch sử và nâng cao hiểu biết về phương pháp dạy học mới để đưa chất lượng dạy học bộ môn có kết quả cao. 2. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI - Xây dựng cơ sở về lý luận dạy học lịch sử theo sử dụng bản đồ tư duy. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Cơ sở khoa học về phương pháp dạy học theo bản đồ tư duy. Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách kết hợp sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Đặc biệt BĐTD là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập BĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. Cơ chế hoạt động của BĐTD là chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương và giúp học sinh hiểu bài, nhớ lâu, nhớ sâu. 2. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo bản đồ tư duy. - Đối với học sinh + BĐTD giúp học sinh học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn học thuộc như Lịch sử, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển được tư duy. + Giúp học sinh học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình, vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học Từ 15 đến 20 năm nay, nhiều nước trên thế giới đã ứng dụng BĐTD trong giảng dạy, học tập, làm việc, kinh doanh lập kế hoạch. Ở Việt Nam việc sử dụng BĐTD trong giảng dạy đã có từ lâu nhưng chỉ dưới dạng sơ đồ hệ thống kiến thức đơn giản và chỉ áp dụng cho một số bộ môn. Trong 3 năm gần đây, TS Trần Đình Châu và TS Đặng Thị Thu Thủy, cùng các cán bộ Viện Nghiên cứu Giáo dục Việt Nam, Dự án Phát triển Giáo dục THCS kết hợp với Vụ Giáo dục Trung học và Cục Nhà giáo của Bộ GD-ĐT đã tìm tòi nghiên cứu để cụ thể hóa việc ứng dụng BĐTD vào dạy học tại Việt Nam. Trên 30 bài báo khoa học cùng với 4 cuốn sách: “Dạy tốt- học tốt các môn học bằng bản đồ tư duy” dùng cho giáo viên và học sinh từ lớp 4 đến lớp 12 của hai tác giả trên do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành đã được ngành GD quan tâm. Năm 2010, ứng dụng BĐTD trong dạy và học đã được triển khai thí điểm tại 355 trường trên toàn quốc. Hè 2011, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho tiến hành giảm tải nội dung dạy học, năm học 2011- 2012 dạy học bằng BĐTD là 1 trong 5 chuyên đề dạy học tích cực được tập huấn cho hơn 4.000 giáo viên cốt cán bậc THCS trên cả nước. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển đã khẳng định: “ Toàn ngành nỗ lực giảm tải mạnh mẽ nội dung dạy học theo 5 tiêu chí trên nguyên tắc vẫn phải giữ được mạch kiến thức và tính thống nhất của chương trình. Điều đó có nghĩa là giảm tải những nội dung trùng lắp, nhàm chán, không phù hợp... nhưng không giảm yêu cầu”. Muốn vậy, cùng với giảm tải phải tiến hành áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, từng bước chuyển cách dạy và học từ chổ trang bị kiến thức cho người học sang dạy học sinh cách tiếp nhận và tìm tòi kiến thức, vận dụng vào thực tế và biến thành kỹ năng của riêng mình. Cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác, việc triển khai dạy học bằng BĐTD chính là một công cụ phù hợp mà các trường đang thực hiện để tiến hành giảm tải đạt chất lượng, làm phong phú thêm PPDH tích cực đã và đang thực hiện. III. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Thực trạng 1.1. Thực trạng dạy học lịch sử theo phương pháp sử dụng BĐTD ở Huyện Lệ Thủy. Qua nắm bắt tình hình và trao đổi với đồng nghiệp về việc giảng dạy lịch sử có liên quan đến BĐTD bản than tôi nhận thấy. a. Về phía giáo viên: Khi giảng dạy một tiết có liên quan đến BĐTD rất đơn giản, chỉ cần lấy sẵn một tiết nào đó có ở mạng Internet và chỉnh sửa đôi chút là được và trong giáo án thì không - Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. - Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. - Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. Khi củng cố kiến thức giáo viên hướng dẫn HS hệ thống kiến thức bài học bằng bản đồ tư duy. (Lưu ý: - BĐTD là một sơ đồ mở, GV yêu cầu các nhóm HS nên vẽ các kiểu BĐTD khác nhau, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức, cấu trúc (nếu cần)). - Ghi bảng: Giáo viên tóm tắt bài học bằng một sơ đồ kiến thức (Dàn bài). Ví dụ : Dạy bài “Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” – Lớp 9. Đặc điểm của bài này là học sinh đã nắm được những sự kiện, diễn biến và khí thế của phong trào cách mạng nước ta trước đó, nắm được những bước phát triển của cách mạng Việt Nam và điều kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa. Biết những hình ảnh, tư liệu về cách mạng tháng Tám năm 1945. Vì vậy khi dạy bài này chúng ta hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm thiết lập BĐTD với “Chìa khóa” là “ Tổng khởi nghĩa tháng tám và sự thành lập nước VNDCCH”. Từ đó xậy dựng kiến thức của từng cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng bản đồ tư duy vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Các bản đồ thường được giáo viên sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thong tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Ví dụ: Trước khi dạy học bài 6 Các nước Châu Phi (Lịch sử 9), giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện BĐTD về sự ra đời và quá trình phát triển thành viên của tổ chức ASEAN (mục II, III bài 5 Các nước Đông Nam Á) Ví dụ: Hoặc trước khi dạy bài 15: Phong trào cách mạng Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất 1919-1925 (lịch sử 9), giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện BĐTD bài 14: Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất (mục III). Ví dụ: Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Lịch sử 9), để xác định lệnh Tổng khởi nghĩa, việc giành chính quyền ở Hà Nội, trong cả nước và ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thành công của cách mạng tháng Tám là phần kiến thức không khó nhưng không dễ nhớ đối với học sinh. Nếu giáo viên sử dụng phương pháp trình bày truyền thống thì vấn đề vẫn được giải quyết nhưng không hiệu quả vì nội dung dàn trải, hết nội dung này đến nội dung khác, học sinh sẽ không thấy được mối quan hệ về việc chớp thời cơ để Tổng khởi nghĩa và việc dành chính quyền ở Hà Nội có ý nghĩa như thế nào đối với việc giành chính quyền trong cả nước và đặc biệt là ý nghĩa to lớn, nguyên nhân thành công của cách mạng tháng Tám. Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức cần nắm trong bài học hôm nay giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm việc theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, dựa vào nội dung trong sách giáo khoa, bản đồ trong sách giáo khoa, bản đồ treo tường để hoàn thành bài tập. Cuối cùng giáo viên cùng học sinh hoàn thiện được một bản đồ tư duy kiến thức theo ý muốn của mình, kết quả có thể như sau. Ví dụ: Khi dạy 26: Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp(1950-1953) (lịch sử 9), sau khi dạy xong mục I: Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950, giáo viên có thế nhấn mạnh kiến thức lại nội dung kiến thức bài học này một cách đầy đủ và trực quan bằng BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn, qua đó học sinh sẽ hứng thú, nhớ lâu, nắm chắc bài học hơn. 2.6. BĐTD hỗ trợ cho tiết tổng kết ôn tập kiến thức. Sau mỗi chương mỗi phần, giáo viên cần phải tổng kết, ôn tập, hệ thống hóa kiến thức cho học sinh trước khi các em làm bài tập và làm bài kiểm tra chương, kiểm tra học kì, thi cuối năm. Với thế mạnh của BĐTD là kiến thức được hệ thống hóa dưới dạng sơ đồ, các đường nối là sự diễn tả mạch logic kiến thức hoặc các mối quan hệ nhân quả hay quan hệ tương đương, cộng them màu sắc của các đường nối, màu sắc của các đơn vị kiến thức, sẽ giúp học sinh nhìn thấy “Bức tranh tổng thể” cả một phần kiến thức đã học. Có nhiều cách xây dựng BĐTD trong tiết ôn tập, củng cố: - Thông thường giáo viên cho một số câu hỏi và bài tập để học sinh chuẩn bị ở nhà. Trong tiết ôn tập, củng cố, giáo viên hướng dẫn học sinh tự lập BĐTD, sau đó cho học sinh trao đổi kết quả với nhau và sau cùng đối chiếu với BĐTD do giáo viên lập ra. Từng em có thể bổ sung hay sửa lại BĐTD của mình và coi đó là tài liệu ôn tập của mình. - Cách khác: Giáo viên lập BĐTD mở. Trong giờ ôn tập, củng cố, giáo viên chỉ vẽ một số nhánh chính, thậm chí không đủ nhánh, hoặc thiếu, hoặc thừa thông tin trong tiết học đó, giáo viên yêu cầu học sinh tự bổ sung, thêm hoặc bớt thông tin, để cuối cùng toàn lớp lập được một BĐTD ôn tập, củng cố kiến thức chương đó tương đối hoàn chỉnh và hợp lý. Cách làm này sẽ lôi cuốn được sự tham gia của học sinh (suy
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_day_va_hoc.doc