Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kĩ thuật sơ đồ KWL trong dạy học Vật lí
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kĩ thuật sơ đồ KWL trong dạy học Vật lí", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kĩ thuật sơ đồ KWL trong dạy học Vật lí
UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG Trường Trung học cơ sở Lương Thế Vinh SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SỬ DỤNG KĨ THUẬT SƠ ĐỒ KWL TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ - Lĩnh vực/Môn: Vật lí - Cấp học: THCS - Tên tác giả: Lê Thị Hoan - Đơn vị công tác: Trường THCS Lương Thế Vinh - Chức vụ: Giáo viên NĂM HỌC: 2022 – 2023 2/11 không nằm ngoài quy luật trên. Mục tiêu của môn Vật lí cũng như các môn học khác là đào tạo ra những con người có năng lực hành động, năng lực làm việc, vận dụng kiến thức, kĩ năng để giải quyết những tình huống, vấn đề trong cuộc sống. Để đạt được mục tiêu đề ra, nội dung dạy học Vật lí THCS đã có sự thay đổi, hoàn thiện và toàn diện hơn so với chương trình cũ. Bản thân tôi cũng đã tìm hiểu nhiều phương pháp dạy học mới để tạo hứng thú học tập, hình thành và phát triển năng lực cho học sinh trong giờ học Vật lí. Trong đó tôi đã thử áp dụng phương pháp kĩ thuật dạy học mới để hình thành và phát triển năng lực cho học sinh đó là: kĩ thuật sơ đồ KWL để giảng dạy. Chính vì lí do trên tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Sử dụng kĩ thuật sơ đồ KWL trong dạy học Vật lí” để ghi lại ý tưởng mà bản thân đã thực hiện trong quá trình giảng dạy Vật lí ở trường THCS. II. Ý nghĩa và tác dụng của đề tài. - Đề tài chỉ ra được tính ứng dụng của phương pháp, kĩ thuật dạy học mới đối với việc giảng dạy Vật lí. - Việc sử dụng phương pháp kĩ thuật dạy học kiểu mới giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, dễ liên hệ kiến thức, tích cực, chủ động, đoàn kết và yêu thích môn học hơn. - Cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho giáo viên trong giảng dạy môn Vật lí. - Đáp ứng được một phần nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay trong các nhà trường. III. Mục đích nghiên cứu Tìm cho mình một phương pháp để vừa đảm bảo truyền thụ được kiến thức vừa có thể rèn luyện được kĩ năng, phát triển được năng lực cho học sinh nhằm phục vụ cho cuộc sống của các em sau này. IV. Đối tượng nghiên cứu - Học sinh lớp 8, 9 trường THCS Lương Thế Vinh- Đan Phượng- Hà Nội V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Chương trình vật lí 8,9 THCS. Thời gian nghiên cứu: 06 tháng (09/2022 đến 2/2023) VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp phân tích và tổng hợp 4/11 II. Thực trạng vấn đề. 1. Thực trạng của hoạt động dạy và học Vật lí trong nhà trường. Từ trước tới nay trong dạy học môn Vật lí, giáo viên chủ yếu sử dụng các phương pháp dạy học như phương pháp thuyết trình, phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan, phương pháp vấn đáp. Nhiều giáo viên đã sử dụng tốt các phương pháp này theo hướng phát huy tính sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, cũng có giáo viên ít quan tâm tới việc giúp học sinh phát huy tính sáng tạo của mình trong giờ học, chỉ sử dụng các phương tiện trực quan để mang tính chất minh họa; tức là giáo viên chưa khai thác triệt để nguồn kiến thức từ phương tiện và chưa chú ý đến việc học sinh có khả năng tự làm việc với các phương tiện đó hay không. Tuy thời gian gần đây, việc dạy học môn Vật lí đã được cải thiện theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, nhưng học sinh vẫn còn mang nặng tính thụ động, chưa có kỹ năng tự tìm hiểu, phát hiện kiến thức mới. Có thể kể đến nhiều nguyên nhân như: Một bộ phận giáo viên chưa thật sự tâm huyết với môn mình dạy, học sinh còn mang nặng tính “chính phụ”. Trong những năm mới đi dạy tôi vẫn chưa biết cách vận dụng linh hoạt các phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau vào trong giảng dạy bộ môn của mình nên kết quả giờ dạy còn nhiều hạn chế như: - Học sinh nắm kiến thức còn hời hợt, mơ hồ, chưa có hệ thống, nhanh quên. - Học sinh trả lời các câu hỏi hiểu và vận dụng vào thực tế còn yếu. - Học sinh yếu kém thì không thích học. - Học sinh khá, giỏi chưa có điều kiện để phát triển tư duy. - Giờ dạy khô khan, cứng nhắc. Mặt khác, trong lớp học thì lực học và khả năng nhận thức không đều nên giáo viên trong quá trình giảng dạy rất khó đạt hiệu quả như mong muốn. Khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm thông thường thì tôi thấy tồn tại những vấn đề như: - Trong mỗi nhóm hầu như chỉ có vài học sinh làm việc, một số học sinh khác nói chuyện, làm việc riêng không chú tâm vào làm việc. - Kết quả thảo luận của cả nhóm đôi khi chỉ là ý kiến của một hoặc vài cá nhân. - Không có sự phân chia nhiệm vụ giữa các thành viên trong nhóm. - Kết quả thảo luận nhóm nhiều lúc chưa hoàn thành hoặc chưa đạt được yêu cầu của giáo viên đưa ra. 2. Thực trạng của việc vận dụng kỹ thuật sơ đồ KWL. 6/11 1.3.2. Tạo bảng KWL: Giáo viên vẽ một bảng lên bảng, ngoài ra, mỗi học sinh cũng có một mẫu bảng của các em. Có thể sử dụng mẫu sau. K (Điều đã biết) W(Điều muốn biết) L (Điều học được) 1.3.3. Đề nghị học sinh động não nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến chủ đề. Cả giáo viên và học sinh cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K. Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Tổ chức cho học sinh thảo luận về những gì các em đã ghi nhận. 2. Tăng cường tiến hành áp dụng kĩ thuật: Sơ đồ KWL vào tình hình cụ thể của nhà trường Để phát huy kỹ thuật sơ đồ KWL giáo viên có thể phát biểu mẫu từ tiết học trước và giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh chuẩn bị tìm hiểu trước các vấn đề liên quan đã được học ở các bộ môn khác hay ở cấp tiểu học. Đối với cột K Chuẩn bị những câu hỏi để giúp học sinh động não. Đôi khi để khởi động, học sinh cần nhiều hơn là chỉ đơn giản nói với các em: “Hãy nói những gì các em đã biết về...” Khuyến khích học sinh giải thích. Điều này rất quan trọng vì đôi khi những điều các em nêu ra có thể là mơ hồ hoặc không bình thường. Hỏi học sinh xem các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề. Cả giáo viên và học sinh ghi nhận câu hỏi vào cột W. Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Nếu học sinh trả lời bằng một câu phát biểu bình thường, hãy biến nó thành câu hỏi trước khi ghi nhận vào cột W. Đối với cột W Hỏi những câu hỏi tiếp nối và gợi mở. Nếu chỉ hỏi các em: “Các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề này?” Đôi khi học sinh trả lời đơn giản “không biết”, vì các em chưa có ý tưởng. Hãy thử sử dụng một số câu hỏi sau: “Em nghĩ mình sẽ biết thêm được điều gì sau khi em đọc chủ đề này?” Chọn một ý tưởng từ cột K và hỏi, “Em có muốn tìm hiểu thêm điều gì có liên quan đến ý tưởng này không?” Chuẩn bị sẵn một số câu hỏi của riêng bạn để bổ sung vào cột W. Có thể giáo viên mong muốn học sinh tập trung vào những ý tưởng nào đó, trong khi các câu hỏi của học sinh lại không mấy liên quan đến ý tưởng chủ đạo của bài đọc. Chú ý là không được thêm quá nhiều câu hỏi của bạn. Thành phần chính trong cột W vẫn là những câu hỏi của học sinh. 8/11 Bước 3: Dựa trên cột K và W của học sinh, giáo viên nhận xét, bổ sung, thông báo đây là điều em đã biết và muốn biết. Chúng ta sẽ học bài mới để tìm hiểu và trả lời các câu hỏi này Dự kiến câu trả lời Những điều em đã biết về Những điều em muốn Những điều công của cơ trong sinh học biết về công cơ học em học được 8 trong vật lí (Want) (Learn) (Known) + Công của cơ là đại lượng + Khi nào có công cơ sinh ra khi cơ co tạo 1 lực học? tác dụng làm vật di chuyển + Công cơ học là công + Công của cơ được sử dụng của ai? trong các thao tác vận động + Công thức tính công? trong lao động. Đơn vị? + Nếu có một lực F tác động vào vật làm vật dịch chuyển quãng đường s thì sản sinh một công là A = F.s 3.2 Ví dụ 2: Bài 4- Đoạn mạch nối tiếp- Vật lí 9 Cách tiến hành: GV chia lớp thành 6 nhóm; Phát phiếu học tập cho học sinh Bước 1: GV yêu cầu HS tìm hiểu thông tin SGK, yêu cầu: - Làm việc cá nhân 3 phút + Điền vào cột K những điều em đã biết về đoạn mạch nối tiếp + Điền vào cột W điều mà em muốn biết về đoạn mạch nối tiếp Những điều em đã biết về Những điều em muốn Những điều đoạn mạch nối tiếp biết về đoạn mạch nối em học được (Known) tiếp (Want) (Learn) .. .. .. . . - Thảo luận với các bạn trong nhóm, thống nhất để hoàn thành vào bảng giấy A0. 10/11 - Khả năng nhớ và vận dụng kiến thức Vật lí, cách lập luận, trình bày vấn đề của các em tốt hơn. - Điểm trung bình môn cuối học kì ở các lớp thực nghiệm cao hơn đáng kể như Kết quả thi học kì 1 của lớp 8B, 9B- Không sử dụng sơ đồ KWL Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu - Kém 8B 45 24 14 61 1 9B 46 22 21 3 0 Kết quả thi học kì 1 của lớp 8A, 9A- Sử dụng kĩ thuật sơ đồ KWL Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu - Kém 8A 45 38 7 0 0 9A 45 34 10 1 0 Những mặt tích cực có được như thế chắc chắn là hệ quả của quá trình chủ động học tập, vận động tư duy, phối hợp nhóm trước đó của các em. Để giải được bài tập nhận thức đòi hỏi học sinh phải sử dụng năng lực nhận thức, lựa chọn các chi tiết cần thiết để trên cơ sở đó, học sinh sử dụng các hình thức hoạt động tư duy như phân tích, so sánh, khái quát, tổng hợp, vận dụng những kiến thức đã biết, soi vào những điều kiện đã cho ở chủ đề, tìm ra lời giải; phát hiện ra kiến thức mới theo yêu cầu của chủ đề. Việc sử dụng kĩ thuật “ sơ đồ KWL” trong dạy học thật sự có tác dụng tích cực trong việc phát triển năng lực nhận thức cho học sinh. Mang lại hiệu quả rõ ràng nâng cao chất lượng trong dạy Vật lí. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những hạn chế sau: - Còn có những cá nhân học sinh chưa thực sự tích cực thực hiện theo yêu cầu của kĩ thuật mới, nên chưa có sự chuyển biến trong hoạt động nhận thức và kết quả học tập. - Sự quan sát của giáo viên cũng cũng hạn chế trong việc đánh giá sự chủ động, tích cực của tất cả các đối tượng, nhất là với học sinh yếu.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ki_thuat_so_do_kwl_trong_day_h.docx