Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào giảng dạy môn Hóa học 9
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào giảng dạy môn Hóa học 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào giảng dạy môn Hóa học 9
SKKN: Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào giảng dạy môn Hóa học 9 ĐẶT VẤN ĐỀ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực là một trong những mục tiêu hàng đầu của ngành giáo dục nước ta. Dạy học theo hướng tích cực dựa trên quan điểm lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học. Để dạy học tích cực cần đổi mới mục tiêu dạy học của mỗi bài học. Giáo viên là người thiết kế, tổ chức, khuyến khích, tạo điều kiện để đa số học sinh tích cực hoạt động tìm tòi, khám phá, xây dựng và vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng; Đổi mới các hình thức tổ chức dạy học đa dạng, phù hợp; Sử các phương tiện dạy học hiện đại như là nguồn kiến thức; Sử dụng linh hoạt các phương tiện dạy học chung và phương tiện dạy học đặc thù của môn học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Hóa học là môn khoa học thực nghiệm, học phải đi đôi với hành. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực là điều tất yếu không thể tách rời xu thế chung của nền giáo dục hiện đại. Trong quá trình tìm tòi, thực hiện các phương pháp dạy học tích cực, tôi thấy phương pháp” Bàn tay nặn bột” là một trong những phương pháp dạy học có nhiều tính ưu việt nhất, tích hợp được những ưu điểm của các phương pháp dạy học tích cực hiện nay. Giờ dạy có vận dụng phương pháp” Bàn tay nặn bột” thì kiến thức được khắc sâu và kỹ hơn, không khí lớp học sôi nổi, học sinh hứng thú và say mê với môn học hơn,... Chính vì vậy hiệu quả giờ học được nâng cao hơn. Là một giáo viên với bề dày hơn 20 năm trong nghề, tôi cùng đồng nghiệp không ngừng nghiên cứu và tìm tòi các phương pháp dạy học nhằm đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của ngành. Năm 2012 Sở GDĐT Hà Nội cử cán bộ cốt cán của một số quận huyện tập huấn và triển khai phương pháp “ Bàn tay nặn bột” về dạy thí điểm ở một số trường học, sau đó nhân rộng ra các trường học trong quận, huyện. Nhờ tính ưu việt của mình phương pháp BTNB đã nhanh chóng len lỏi sâu vào từng cấp học, môn học, bài học. 1 Năm học 2015- 2016 SKKN: Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào giảng dạy môn Hóa học 9 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BTNB VÀO GIẢNG DẠY MÔN HÓA HỌC Ở TRƯỜNG THCS Phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột" (BTNB), tiếng Pháp là La main à la pâte - viết tắt là LAMAP; tiếng Anh là Hands-on, là phương pháp dạy học khoa học dựa trên cơ sở của sự tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự nhiên. Phương pháp “Bàn tay nặn bột" là một chiến lược về giáo dục khoa học, được Giáo sư Georger Charpak (người Pháp) sáng tạo ra và phát triển từ năm 1995 dựa trên cơ sở khoa học của sự tìm tòi – nghiên cứu, cho phép đáp ứng những yêu cầu dạy học mới. Phương pháp "Bàn tay nặn bột" (BTNB) đã được vận dụng, phát triển và có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ ở Pháp mà còn ở nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Đứng trước một sự vật hiện tượng, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành thực nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. Mục tiêu của phương pháp BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh. Ở nước ta, Đề án phương pháp “Bàn tay nặn bột” giai đoạn 2011-2015 được Bộ GD&ĐT triển khai thử nghiệm từ năm 2011 và chính thức triển khai trong các trường phổ thông từ năm học 2013 - 2014. Đây là phương pháp dạy học hiện đại, có nhiều ưu điểm trong việc kích thích tính tò mò, ham muốn khám phá, say mê khoa học, rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ nói và viết của học sinh. Hóa học là môn khoa học tự nhiên nghiên cứu về chất và sự biến đổi chất này thành chất khác. Hay cũng có thể nói: “ Hóa học là môn khoa học thực 3 Năm học 2015- 2016 SKKN: Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào giảng dạy môn Hóa học 9 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BTNB VÀO GIẢNG DẠY MÔN HÓA Ở TRƯỜNG THCS 1. Đặc điểm chung của nhà trường 1.1. Thuận lợi: Trường THCS ... là một trường có truyền thống “Dạy tốt - học tốt”. Nhà trường có đội ngũ giáo viên tâm huyết với nghề nghiệp luôn có ý thức vận dụng các phương pháp dạy học hiện đại vào giảng dạy. Trên tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục , Nhà trường thấy được tầm quan trọng của PP BTNB và sử dụng nó như một công cụ hữu hiệu để thực hiện mục tiêu đổi mới của mình. Ngay từ những năm đầu Phòng GDĐT triển khai dự án “Bàn tay nặn bột” trường THCS....cũng nhanh chóng cử cán bộ đi học tập các chuyên đề và về triển khai trong tổ nhóm chuyên môn. Nhà trường sớm thấy được tầm quan trọng cũng như thận lợi và khó khăn khi triển khai phương pháp BTNB và đã tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất cho cán bộ giáo viên vận dụng phương pháp BTNB vào giảng dạy. Hiện nay trường có 5 phòng chức năng trong đó có phòng chức năng Hóa được trang bị tương đối đầy đủ về dụng cụ , hóa chất và phương tiện dạy học. 1.2. Khó khăn 1.2.1. Về điều kiện, cơ sở vật chất Hiện nay, bàn ghế lớp học được bố trí theo dãy, nối tiếp nhau, không thuận lợi cho việc tổ chức học theo nhóm; Dụng cụ thí nghiệm còn chưa đồng bộ và độ chính xác không cao nên rất khó khi học sinh tự làm thí nghiệm. Số lượng dụng cụ, hóa chất dùng cho 1 vấn đề cần nghiên cứu bằng phương pháp BTNB cần nhiều hơn so với phương pháp khác rất nhiều. 1.2.2. Chương trình sách giáo khoa Hiện nay, cấu trúc, chương trình sách giáo khoa bố trí theo bài, không theo chủ đề có tính hệ thống; một số kiến thức của bài dạy còn dài dòng và có nhiều phần chưa phù hợp dạy theo phương pháp BTNB 5 Năm học 2015- 2016 SKKN: Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào giảng dạy môn Hóa học 9 - Tranh ảnh, tư liệu, mẫu chất. - Bảng phụ, máy chiếu đa vật thể, máy tính, máy projecter. - Phiếu học tập. 2.1.2. Phương pháp: Tích hợp các phương pháp dạy học truyền thống với các phương tiện dạy học hiện đại nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. - Phương pháp đặt vấn đề giải quyết vấn đề - Phương pháp trực quan - Phương pháp thực hành thí nghiệm - Phương pháp vấn đáp - Phương pháp hoạt động nhóm ... 2.1.3. Kết quả đạt được là : - Học sinh tiếp thu kiến thức theo mục tiêu bài học, tích cực tham gia các hoạt động học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên. - Học sinh được rèn luyện các kĩ năng quan sát, thực hành và thí nghiệm. - Học sinh biết vận dụng kiến thức vào làm bài tập. 2.1.4. Những vấn đề còn tồn tại : Trong quá trình giảng dạy, giáo viên là chủ thể đặt vấn đề và giải quyết vấn đề đặt ra. Chính vì vậy mà chưa kích thích được tính tò mò và đam mê khoa học của học sinh. Dẫn đến chất lượng môn Hóa chưa thực sự đạt kết quả cao như mong muốn. 2.2 Sau khi vận dụng phương pháp BTNB vào bài giảng 2.2.1. Phương tiện và các thiết bị dạy học: - Dụng cụ , hóa chất để học sinh làm thí nghiệm (4-6) bộ. -Tranh ảnnh, tư liệu, mẫu chất. - Bảng phụ , máy chiếu đa vật thể, máy tính , máy projecter. - Phiếu học tập của học sinh. - Bắt buộc mỗi học sinh phải có một quyển vở thực hành do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của các em. 7 Năm học 2015- 2016 SKKN: Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào giảng dạy môn Hóa học 9 CHƯƠNG III : MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1. Lựa chọn bài học và nội dung trong bài để vận dụng phương pháp BTNB 1.1 Mục tiêu: Việc lựa chọn bài, nội dung bài nhằm đảm bảo thời gian liên tục cho các hoạt động dạy học trong thời lượng nhất định và việc thiết kế bài giảng của giáo viên thuận lợi, suôn sẻ hơn. 1.2 Cách thực hiện: Hóa học lớp 9 được chia làm 5 chương: - Chương I: Các loại hợp chất vô cơ - Chương II: Kim loại - Chương III: Phi Kim - Chương IV: Hiđro cacbon - Chương V: Dẫn xuất hi đrocacbon Mỗi chương thường có cấu trúc chung như sau: Đầu chương thường những bài nghiên cứu tính chất chung (tính chất mới) sau đến bài nghiên cứu một số chất quan trọng (điển hình) của mỗi loại chất đó. Sau đó đến tiết luyện tập và thực hành. Trong mỗi bài học thường nghiên cứu: Trạng thái tự nhiên, tính chất vật lí, tính chất hóa học, ứng dụng và điều chế chất. Những yêu cầu mang tính nguyên tắc của phương pháp BTNB là sự định hướng quan trọng cho việc lựa chọn nội dung để vận dụng. Các bài dạy, nội dung bài dạy phải gần gũi với đời sống mà học sinh dễ cảm nhận và đã có ít nhiều những quan niệm ban đầu về chúng, học sinh phải tự đề xuất được các phương án thí nghiệm và tự lực tiến hành các thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu. Chính vì vậy, khi giảng dạy môn Hóa học không nhất thiết bài nào cũng vận dụng hoặc phải dạy toàn bộ nội dung bài học trong sách giáo khoa bằng phương pháp BTNB. Có thể lựa chọn bài hoặc 1 vài đơn vị kiến thức trong bài để thực hiện . 2. Lựa chọn và sử dụng thiết bị dạy học trong phương pháp BTNB 2.1. Mục tiêu: 9 Năm học 2015- 2016 SKKN: Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào giảng dạy môn Hóa học 9 mất tập trung với học sinh và có thể sẽ làm lộ ý đồ dạy học của giáo viên khi giáo viên muốn học sinh tự đề xuất thí nghiệm nghiên cứu. Giáo viên phải lường trước được những yêu cầu của học sinh để chuẩn bị đồ dùng và hóa chất cho các thí nghiệm . Theo kinh nghiệm, tôi đã chuẩn bị một số dụng cụ và hóa chất có tính khả thi nhưng số lượng hóa chất nhiều hơn so với số thí nghiệm có trong nội dung sách giáo khoa để học sinh có sự lựa chọn phù hợp với câu hỏi đề xuất. Ví dụ trong bài “ Tính chất hóa học của axit “ học sinh thắc mắc: axit có tác dụng với kim loại ? sản phẩm là gì ? điều kiện để phản ứng xảy ra? Chuẩn bị + Axit : dd HCl, dd H2SO4 loãng. + Kim loại: sắt, nhôm, magie, kẽm, đồng ,... Căn cứ vào dụng cụ, hóa chất có trong PTN (có trong danh mục) học sinh được thông báo để lựa chọn phương án thí nghiệm. Học sinh có thể lựa chọn 1 trong 4 kim loại trên cho tác dụng 1 trong 2 dd axit trong hoặc có thể làm nhiều thí nghiệm để trả lời cho câu hỏi thắc của mình. Tránh tình trạng chỉ có 1 kim loại và 1 dd axit thì học sinh không có sự lựa chọn hoặc học sinh đề xuất thí nghiệm khó khả thi ngoài khả năng cho phép của nhà trường, chẳng hạn như đề xuất cho vàng, bạch kim tác dụng với dd HCl ... Ở pha này, giáo viên cũng cần phải kiểm tra các TBDH, làm trước các thí nghiệm để không lúng túng trong việc kiểm tra xem kết quả thí nghiệm của học sinh có như yêu cầu đặt ra không. Khi sử dụng phương pháp BTNB, học sinh cần phải tự tiến hành thí nghiệm và tiến hành nhiều lần để có kết quả tốt, vì vậy giáo viên cần phải chú ý vấn đề an toàn khi các em làm thí nghiệm. 2.2.5. Ở pha 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức Trong quá trình thực hiện thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, giáo viên yêu cầu HS ghi kết quả vào phiếu học tập ( bảng nhóm). Học sinh báo cáo kết quả thí nghiệm nghiên cứu, đối chiếu với dự đoán ban đầu, nhận xét và đưa ra kết luận. Khi học sinh đưa ra được đơn vị kiến thức mới, giáo viên cần kết hợp với các phương tiện hiện đại khác như: máy chiếu đa vật thể, máy projecter... để tổng 11 Năm học 2015- 2016
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_van_dung_phuong_phap_ban_tay_nan_bot_v.doc