SKKN Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn Lớp 9 ở trường THCS Buôn Trấp
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn Lớp 9 ở trường THCS Buôn Trấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn Lớp 9 ở trường THCS Buôn Trấp
I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài Ngữ văn là một môn học rất quan trọng trong hệ thống các môn học ở cấp THCS. Mục tiêu của môn Ngữ văn là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung, chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Cụ thể, môn học Ngữ văn nhấn mạnh ba mục tiêu chính sau: Thứ nhất rang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam – phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. Thứ ba, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại”. Việc dạy học môn Ngữ Ngữ văn còn là giúp cho học sinh có được những những kỹ năng giao tiếp, sự tự tin trình bày trước đông người; giúp các em có bản lĩnh vững vàng, dám bày tỏ ý kiến, suy nghĩ của mình. Do vậy, việc nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn là vô cùng quan trọng. Tuy vậy, trong việc học môn Ngữ văn hiện nay nói chung, nhiều em rất rụt rè trong giao tiếp, không dám bày tỏ ý kiến, suy nghĩ của mình trước lớp, thiếu chủ động, tích cực trong việc tiếp thu kiến thức bài học. Chất lượng học tập ở những lớp đại trà chưa được như mong muốn. Vậy làm thế nào để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập là câu hỏi mà các thầy cô giáo trong đó có bản thân chúng tôi luôn trăn trở và tìm hướng trả lời. Xuất phát từ nhu cầu và mong muốn của bản thân chúng tôi trong quá trình dạy học là nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong chương trình dạy học môn Ngữ văn lớp 9 ở trường phổ thông, do đó chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài "Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Buôn Trấp". I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài a. Mục tiêu của đề tài Chia sẻ cùng các thầy cô giáo một số kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh thông qua việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong 1 Thực tế cho thấy: hoạt động đổi mới PPDH chỉ có thể thành công khi giáo viên có động lực hành động và chuyển hóa được từ ý chí trở thành tình cảm và tinh thần trách nhiệm đối với học sinh, đối với nghề dạy học. Các chuyên đề về đổi mới PPDH được đưa ra tập huấn luôn là cơ sở cho giáo viên nghiên cứu, vận dụng một cách chủ động, tích cực, sáng tạo phù hợp với đặc trưng bộ môn, phù hợp với yêu cầu của từng bài học, giúp học sinh phát triển và rèn luyện các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý thông tin, giải quyết các tình huống, kỹ năng thực hành 2. Thực trạng 1.2. Thuận lợi, khó khăn a) Thuận lợi: - Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ban giám hiệu nhà trường rất tích cực trong việc chỉ đạo đổi mới PPDH. - Trường THCS Buôn Trấp có 13 giáo viên được đào tạo chuyên ngành Ngữ văn (trong đó có 11 giáo viên đứng lớp và 02 cán bộ quản lý), được biên chế thành một tổ chuyên môn nên dễ có điều kiện trao đổi, học hỏi nhau về kiến thức cũng như kinh nghiệm giảng dạy bộ môn. - Sinh hoạt của tổ chuyên môn đã dần đi vào chiều sâu và đạt hiệu cao (tổ đã giành nhiều thời gian cho việc bàn bạc, thảo luận cách dạy các bài (nội dung) dài, khó ), năng lực chuyên môn của giáo viên ngày càng được khẳng định. - Công nghệ thông tin phát triển cùng với sự bùng nổ của Internet nên việc tìm hiểu, khai thác thông tin về lĩnh vực bộ môn, phân môn, bài dạy trên mạng ngày càng dễ dàng và thuận lợi. - Giáo viên thường xuyên được tập huấn hoặc tiếp thu chuyên đề về đổi mới PPDH nói chung và đổi mới PPDH đối với môn Ngữ văn nói riêng. Đa số giáo viên đã chủ động vận dụng khá hiệu quả các PPDH tích cực vào quá trình lên lớp. b) Khó khăn: - Thói quen sử dụng PPDH truyền thống ở một số giáo viên còn nặng nề. - Một số bài học, tiết học, nội dung kiến thức còn nặng so với thời gian quy định tại PPCT. - Cơ sở vật chất chưa thực sự đáp ứng yêu cầu dạy và học. - Một số học sinh chưa thật hứng thú với môn học, còn có thói quen ỉ lại, dựa dẫm vào bạn; thiếu mạnh dạn, chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập. 3 giao tiếp, nhiều khi tỏ ra e dè, không tự tin, ít đầu tư thời gian cho việc chuẩn bị bài ở nhà. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra. Thực tế giảng dạy cho chúng ta thấy: trong một lớp học đại trà, số học sinh học khá, giỏi môn Ngữ văn, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập còn chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn. Bên cạnh đó, còn nhiều học sinh thiếu cố gắng trong học tập, thụ động trong việc tiếp thu kiến thức, hạn chế về khả năng diễn đạt, thậm chí có những học sinh thuộc vào diện “hết thuốc chữa”, giáo viên đành cho “ngủ yên” để khỏi ảnh hưởng lớp. Phương pháp tổ chức hoạt động học tập của học sinh theo hướng học sinh – đối tượng của hoạt động “dạy” trở thành chủ thể của hoạt động “học là một PPDH tích cực – “phương thuốc” khá hữu hiệu nhằm kích thích tư duy độc lập của học sinh, dạy học sinh cách tự suy nghĩ, lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học, làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động, kích thích hứng thú học tập, lòng tự tin của các em, rèn cho các em năng lực diễn đạt, mạnh dạn bày tỏ sự hiểu biết của mình, biết chú ý lắng nghe và hiểu ý diễn đạt của người khác. Tạo môi trường học tập thân thiện để học sinh có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau. Học sinh kém có điều kiện học tập các bạn trong nhóm, cùng các bạn trong nhóm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thông qua đàm thoại, dạy học tích cực, giáo viên sẽ nhanh chóng thu thập được thông tin phản hồi từ phía người học, duy trì và kiểm soát được hành vi của học sinh. Học sinh sẽ có được niềm vui khi mình được trực tiếp tham gia khám phá, tìm hiểu và nắm bắt kiến thức mới thông qua sự hướng dẫn của thầy cô giáo. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Giúp các thầy cô giáo cùng dạy môn Ngữ văn hiểu rõ hơn về mục đích của việc dạy học tích cực; có thêm kinh nghiệm trong việc thiết kế hệ thống câu hỏi và đặt câu hỏi cũng như tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, tạo niềm say mê, hứng thú cho các em trong học tập. 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Từ ý thức về tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập và từ thực trạng của việc dạy học môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS THCS Buôn Trấp, những năm qua chúng tôi đã cố gắng tìm tòi, vận dụng Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn và bước đầu đã thấy hiệu quả. Cúng tôi xin trình bày cách nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp như sau: 5 coi học sinh là chủ thể tiếp nhận, tất yếu giáo viên sẽ phải đối diện với sự đa dạng, phức tạp trong tư duy, trong cách phát ngôn của các em. 2. Biện pháp tổ chức hoạt động tự học của học sinh: rèn luyện cho học sinh có được phương pháp, kĩ năng: đọc, tóm tắt, phân tích tác phẩm, viết bài - Dựa vào các mục biên soạn trong SGK để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài Với người dạy và người học hiện nay ở nước ta, SGK là công cụ có tính chất pháp lí. Nội dung kiểm tra, thi cử bắt đầu và xuất phát từ chương trình và Sách giáo khoa. Nói cách khác dạy và học không thể thoát li chương trình và Sách giáo khoa. Phần Đọc văn trong SGK ở chương trình THCS hiện nay thường được biên soạn theo một cấu trúc cố định với những mục rõ ràng, với trình tự gồm các mục: Tên bài – Kết quả cần đạt – Tên văn bản – Chú thích – Đọc – Hiểu văn bản – Ghi nhớ- Luyên tập. Để chuẩn bị bài, nhất thiết học sinh phải có trong tay quyển SGK và tự làm việc với sách theo hướng dẫn của thầy cô giáo. Trang bị SGK đầy đủ, học sinh thường xuyên đọc sách, bám sát tất cả các mục ở trong SGK, mỗi mục có một vai trò cụ thể. Đặc biệt, HS phải chú trọng đến mục Đọc – hiểu văn bản sau mỗi văn bản. Đây là mục quan trọng có tác dụng định hướng tìm hiểu văn bản cho cả người học và người dạy. Ở mục hướng dẫn học bài này có nhiều câu hỏi được sắp xếp theo hệ thống. Dựa vào hệ thống câu hỏi này để giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài một cách phù hợp, thiết thực và có hiệu quả. Bắt đầu từ SGK là một định hướng khoa học trong việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài cho giờ Đọc văn. Chẳng hạn - Gắn với từng bài học cụ thể phù hợp với đặc trưng thể loại để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài. Mỗi bài học, mỗi văn bản được phân bố với một số lượng thời gian nhất định trong bảng phân phối chương trình. Vì thế, giáo viên nhất thiết phải gắn với từng bài học, từng văn bản với số tiết quy định cụ thể để hướng dẫn học sinh cách thức nội dung, mức độ soạn bài phù hợp. Chẳng hạn với những bài học trong một tiết thì có cách hướng dẫn chuẩn bị bài gọn, nhẹ hơn so với bài hai tiết. Giáo viên cũng cần phải xem xét đặc điểm, tính chất của từng văn bản cụ thể để yêu cầu học sinh chuẩn bị: Thơ khác với văn xuôi. Mặt khác, hiện nay định hướng giảng dạy phần Văn theo phương pháp mới đặc biệt chú trọng yêu cầu tích hợp và đặc trưng thể loại. Xuất phát từ yêu cầu tích hợp cũng như ý thức về việc bám sát đặc trưng thể loại là định hướng đúng đắn cung cấp tri thức đọc hiểu cho học sinh, mà trước hết là ở khâu giúp các em chuẩn bị tốt bài ở nhà. Chẳng hạn khi dạy văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới (Ngữ văn 9) giáo viên phải hướng dẫn cho các em nắm vững đặc trưng của văn nghị luận để học sinh dễ tiếp xúc với văn bản. Bên cạnh đó khi dạy giáo viên nhất 7 cầu các em trả lời các câu hỏi ở phần Hướng dẫn học bài. Việc đọc Sách giáo khoa như đã nói trên trước hết là để trả lời được các câu hỏi này. Tuy vậy, muốn công việc này của các em đạt hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải có những cách thức, biện pháp phù hợp. Giáo viên vừa yêu cầu vừa khuyến khích, động viên các em tự trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn theo cách hiểu của mình, tránh viêc ghi lại, chép lại theo sách giải một cách đối phó, thụ động. Trong quá trình soạn bài chỗ nào các em chưa hiểu hay còn thắc mắc, giáo viên yêu cầu các em chú ý ghi lại hoặc gạch chân, đánh dấu để có thể trao đổi trong quá trình đọc hiểu văn bản trên lớp. Một điều nữa không kém phần quan trọng là khi hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi trong Sách giáo khoa, giáo viên cần hướng các em vào những ý trọng tâm, câu hỏi trọng tâm, điều này rất có ích cho việc đọc hiểu văn bản ở trên lớp. Muốn làm được điều này giáo viên phải có đầu tư suy nghĩ trước một bước. Và như vậy, việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà sẽ mang lại hiệu quả hơn. Chẳng hạn khi soạn bài Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) giáo viên yêu cầu các em chú ý và trả lời kỹ những vấn đề sau: Cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp và sức sống về mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đất nước như thế nào? Đoạn thơ “Ta làm con chim hótDù là khi tóc bạc” gợi cho em những cảm nghĩ gì về ý nghĩa cuộc sống của mỗi con người? (Với câu hỏi 1 giáo viên đã giúp học sinh tìm hiểu nội dung đoạn thơ 1 và 2 của bài thơ, câu hỏi 2 giúp học sinh tìm hiểu nội dung khổ thơ thứ 3 trong bài; Nếu học sinh về nhà chuẩn bị tốt theo các câu hỏi mà giáo viên đã cho khi lên lớp các em sẽ tiếp thu bài rất nhanh) Như vậy, việc hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi là việc làm vô cùng quan trọng, bởi đây là một bước chuẩn bị trước làm cơ sở cho việc đọc tác phẩm trên lớp. Nếu giáo viên làm tốt bước này thì khâu lên lớp sẽ nhẹ nhàng hơn, giờ học sôi nổi hơn và tất nhiên hiệu quả giờ học sẽ cao hơn. - Hướng dẫn học sinh lập dàn ý khái quát sơ đồ tư duy cho bài học. Từ những hiểu biết của bản thân, học sinh tự lập thành sơ đồ, thành những dàn ý theo suy nghĩ của mình. Điều ấy có nghĩa rằng sau khi đọc phân tích, học sinh cần phải tổng hợp, tái tạo lại cấu trúc của bài học. Ghi chép tóm tắt những gì và như thế nào là phụ thuộc vào hiểu biết và kinh nghiệm của từng người. Điều quan trọng là người học phải tự mình nêu lại được các thông tin quan trọng đã tiếp nhận bằng từ ngữ riêng theo cách của mình. - Tổ chức phân công từng vấn đề cụ thể cho từng nhóm học sinh. Sau khi kết thúc một giờ học công việc thường thấy từ trước tới nay là giáo 9
File đính kèm:
- skkn_bien_phap_de_phat_huy_tinh_tich_cuc_chu_dong_cua_hoc_si.doc