SKKN Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn
UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH MÃ SKKN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn” Lĩnh vực: Ngữ văn Cấp học: Trung học cơ sở Tên tác giả: Đặng Thị Vân Đơn vị công tác: Trường THCS Lương Thế Vinh Chức vụ: Giáo viên \ NĂM HỌC: 2016-2017 “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn” A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI : Trên văn bia Văn Miếu – Quốc Tử Giám có viết : “Hiền tài quốc gia chi nguyên khí, nguyên khí thịnh tắc quốc thế cường dĩ long , nguyên khí nỗi tắc quốc thế nhược dĩ ô”. Nghĩa là: Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước mạnh, nguyên khí yếu thì nước suy. Như vậy, rõ ràng nhân tố con người trong mọi thời đại là vô cùng quan trọng. Ngày nay, đất nước ta đang bước vào xu thế hội nhập. Đảng và Nhà nước vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ trước mắt vô cùng bức thiết là thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để đáp ứng nhu cầu của thời đại. Con người lao động mới phải là con người phát triển toàn diện. Vậy mà, có một thực trạng đang tồn tại trong nhà trường phổ thông hiện nay là học sinh không thích học môn Ngữ văn. Vì sao lại có thực trạng đó ? Có rất nhiều nguyên nhân. Một phần do xu thế chọn nghề của xã hội; một phần do định hướng của các bậc phụ huynh hướng con em họ ưu tiên các môn học tự nhiên; một phần cũng do bản thân môn Ngữ văn là môn học không dễ và nguyên nhân nữa không thể không kể đến là do kiến thức, phương pháp truyền thụ có phần hạn chế, cách thiết kế nội dung, các bước tổ chức cho học sinh tiếp cận tri thức thiếu sinh động của chính giáo viên. Hiện nay, việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến về việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực tế, chúng ta có thể khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã giúp các em tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới ,lạ, cập nhật với cuộc sống. Không những thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy sáng tạo, biết phát hiện và giải quyết vấn đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của riêng mình. Có nghĩa là học sinh được rèn nhiều kĩ năng, được phát triển nhiều năng lực tiềm ẩn bên trong các em như : năng lực giao tiếp tiếng Việt; năng lực hợp tác làm việc nhóm; năng lực giải quyết vấn đề; năng lực cảm thụ thẩm mĩMỗi giờ học văn là một niềm vui bất ngờ đối với các em, như đại văn hào Nga M.Gor- ki đã từng nói: “Giáo dục nhằm phát triển tài năng chứ không tạo ra tài năng”! 2/25 “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn” B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI I.CƠ SỞ LÍ LUẬN: Phải nói rằng, lứa tuổi học sinh THCS với đặc điểm tâm sinh lí hết sức điển hình. Đây là thời kì quá độ chuyển từ giai đoạn trẻ em sang người lớn. Trong giai đoạn này, hứng thú của các em đã phát triển ở mức độ cao; hứng thú về học tập đã phát triển và ngày càng đậm nét. Đây là một đặc điểm hết sức thuận lợi đối với việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn. Việc tò mò thích thú môn Văn không phải là khoảng cách xa đối với các em. Bên cạnh đó, ý thức tự lập và khả năng đào sâu khám phá những nét đẹp trong cuộc sống và khám phá những năng lực tiềm ẩn trong bản thân khá cao- đó là một ưu điểm điển hình của học sinh bậc THCS.Song song những ưu điểm trên là những nhược điểm mà nhiều em mắc phải, đó là còn rụt rè e ngại; còn tự ti trong việc nhận thức, đánh giá về bản thân; còn ngại khó, chưa chủ động trong học tập nên chưa đánh thức, phát huy hết khả năng tiềm ẩn của bản thân mình. Vậy làm thế nào để giải quyết những khó khăn đó? Làm thế nào để giờ dạy và học môn Ngữ văn có hiệu quả? Làm thế nào để đánh thức , khơi dậy khả năng của học trò? II.CƠ SỞ THỰC TIỄN: Như chúng ta đã biết “Văn học là nhân học”; “Văn học là nghệ thuật của ngôn từ”. Chính vì vậy, việc học Văn không phải đơn giản.Hơn nữa, trong thời đại hiện nay, môn Ngữ văn không còn là “điểm đến” hấp dẫn với các em học sinh như các môn: Toán, Lí, Hóa, Anh vănmặc dù đó là một trong hai môn chính chiếm số lượng tiết không nhỏ. Có nhiều học sinh rất ngại học môn Văn bởi lí do là văn viết dài, khó học, khó thuộc. Có những tác phẩm tự sự dài học sinh lười không đọc hết dẫn tới tình trạng mơ màng về nội dung, cốt truyện, nhân vật. Có những bài thơ khi học xong, học sinh không nắm được nghệ thuật tiêu biểu, nội dung ý nghĩa của bài thơ. Các em không chủ động tìm tòi, nghiên cứu tác phẩm ở nhà, cộng với trên lớp thầy cô “làm hộ” các em nên học sinh không được rèn kĩ năng vì thế các năng lực tiềm ẩn của học sinh không được đánh thức, khơi dậy dẫn đến kiểu học nhồi sọ, rập khuôn máy móc không hiệu quả. Những lí do trên khiến tâm lí học sinh ngại và chán học môn Văn. Vậy làm thế nào để khắc phục khó khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học môn Ngữ văn thật sự có hiệu quả để thu hút học sinh say mê học tập? Để trả lời cho câu hỏi đó, mỗi người thầy giáo phải rèn cho mình trái tim nhiệt huyết, tri thức phong phú sâu sắc và bản lĩnh vững vàng khi đứng trên bục giảng. 4/25 “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn” - Không giao bài tập về nhà và kiểm tra sát sao sự chuẩn bị của các em. - Phó mặc cho học sinh tự làm. - Không đầu tư nghiên cứu hệ thống câu hỏi dẫn dắt cho khoa học nhất là hệ thống câu hỏi mở và cách thức tổ chức các hoạt động trên lớp để phát huy năng lực cuả học sinh . Tất cả các yếu tố trên dẫn đến giờ dạy và học văn chưa thành công. Các em không có hứng thú học Ngữ văn; vốn từ ít được trau dồi cho phong phú; tỏ ra vụng về trong việc diễn đạt suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của bản thân. Từ đó, việc cảm hiểu các tác phẩm trên lớp cũng bị hạn chế do cảm quan không được đánh thức và rèn luyện. Nhiều kĩ năng yếu kém không được rèn giũa. Chất lượng giáo dục chưa được cải thiện. V. SỐ LIỆU ĐIỀU TRA: LỚP/SĨ SỐ NĂNG LỰC HỌC VĂN GIỎI KHÁ T.BÌNH YẾU KÉM 9C/40 2 (5%) 5 (12,5%) 17 (42,5%) 6 (15%) 4 (10%) VI. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:1. Giáo viên trau dồi để có vốn kiến thức phong phú về môn học: - Giáo viên phải nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản về văn học, bao gồm : kiến thức về lịch sử văn học; kiến thức về lí luận văn học; kiến thức về tác phẩm văn học cụ thể. * Kiến thức về văn học sử : Là có sự hiểu biết về quy luật hình thành và phát triển của các hiện tượng và quá trình văn học diễn ra trong những điều kiện xã hội- lịch sử nhất định. Nắm chắc kiến thức văn học sử có nghĩa là giáo viên trong quá trình luyện tập ,sẽ giúp học sinh có cách nhìn hệ thống về tiến trình phát triển nền văn học, từ đó nắm rõ hơn về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Các em hiểu được văn học Việt Nam có mấy bộ phận? Có thể chia văn học Việt Nam ra mấy giai đoạn lớn? Mỗi giai đoạn có tác giả và tác phẩm tiêu biểu nào? Những chủ để lớn xuyên suốt nền văn học dân tộc là gì? Tác phẩm đang học ra đời trong hoàn cảnh nào? Vị trí của nhà văn ấy trong nền văn học dân tộc?...Nắm vững văn học sử, các em sẽ tiếp nhận văn học một cách có hệ thống, không phiến diện, không lẫn lộnđể từ đó có cách nhìn nhận và đánh giá đúng đắn về tác giả và tác phẩm. 6/25 “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn” nhau tuy cùng viết về một đề tài, một ý, nhưng cách thể hiện phong phú, đa dạng Trước một tình huống hấp dẫn, hình ảnh đẹp, từ ngữ chứa đựng nhiều thông tintrong tác phẩm, giáo viên biết gợi dẫn cho học sinh tìm tòi, giải mã theo suy nghĩ của các em nhưng có định hướng của người thầy trên lập trường , quan điểm đúng đắnvề tác giả, tác phẩm. Như ta đã biết, mỗi tác phẩm văn học,về nội dung, là một bức tranh sinh động về cuộc sống và con người. Và qua bức tranh đó, người viết luôn gửi gắm những tình cảm, tư tưởng và thể hiện thái độ của mình trước cuộc sống. Nhưng những tác phẩm văn học muốn tồn tại được không cho phép dập khuôn lặp lại giữa các tác giả, thậm chí cùng một tác giả. Vì vậy, khi giúp học sinh khám phá tác phẩm văn học, giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng phân tích , tổng hợp, biết so sánh, đối chiếu để tìm ra những điểm tương đồng và những nét đặc sắc riêng để từ đó mà có kiến thức sâu sắc về mỗi tác phẩm. Chẳng hạn khi dạy “Chiếc lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng- SGK Ngữ văn 9), để phân tích khía cạnh nội dung “ tình cảm thiêng liêng cao đẹp của những người đồng chí được nối dài trong kháng chiến” thể hiện qua các nhân vật ông Sáu, ông Ba, cô giao liên Thu , giáo viên có thể so sánh, đối chiếu với những tác giả khác cùng đề tài: “Xưa tiễn chồng đi rười rượi tóc xanh Nay lại tiễn con đi rung rinh đầu bạc” ( Lưu Trọng Lư). Còn Tố Hữu thì: “Lớp cha trước, lớp con sau Đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Hoàng Trung Thông lại viết: “Ta lại viết bài thơ trên báng súng Con lớn lên viết tiếp thay cha Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.” Và vẫn ý ấy, Trinh Đường không muốn lặp lại: “Cha còn đeo quân hàm Con đã ra nhập ngũ. Một hòn đá Trường Sơn Cha con cùng gối ngủ”. Còn về phương diện nghệ thuật, giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng nhận diện và phân tích giá trị ,ý nghĩa để làm nổi bật nội dung, tư tưởng của tác phẩm. *Dấu câu và cách ngắt nhịp: 8/25 “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn” ngời của sự thành công và thắng lợiCó lẽ tất cả đều do âm hưởng của vần “ang” rộng mở, ngân nga mang lại *Từ ngữ , hình ảnh, các biện pháp tu từ: Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngôn từ. Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học không thể có cách nào khác là nhờ vào hệ thống từ ngữ này. Các phương tiện như dấu câu, nhịp điệu, ngữ âm ở trên cũng chỉ có ý nghĩa khi nằm trong một văn bản mà từ ngữ làm nền tảng. Nhà văn muốn mô tả, tái hiện hiện thực phải thông qua từ ngữ. Muốn nói đến nỗi lòng của mình, tình cảm và tư tưởng của mình cũng phải thông qua từ ngữ”Văn học là nghệ thuật ngôn từ” chính là như vậy. Quả thật ngôn từ trong các tác phẩm văn học vừa có tác dụng biểu ý, vừa có tác dụng biểu cảm, gợi hình ảnh, hương vị, âm thanh Chẳng hạn như câu thơ của Nguyễn Du trong “ Truyện Kiều”: “Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. “Dưới trăng quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”. Hay đoạn văn của Nam Cao khắc họa hình ảnh về lão Hạc: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu của lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc.” (Lão Hạc- SGK Ngữ văn 8- Tập 1). - Ngôn từ văn học là loại ngôn từ đã được chắt lọc từ ngôn ngữ đời thường, được nâng cấp, sửa sang, làm cho nó càng óng ả, giàu đẹp hơn. Các biện pháp tu từ chính là những phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trang điểm ngôn từ văn học, đó là các biện pháp tu từ : so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, điệp ngữGiáo viên rèn kĩ năng phân tích các biện pháp tu từ tức là rèn cho học sinh biết chỉ ra hiệu quả của cách viết, cách nói ấy, vai trò và tác dụng của chúng trong việc miêu tả, biểu đạt chứ không phải đơn thuần là chỉ gọi được tên, liệt kê các biện pháp mà nhà văn đã dùng. Chẳng hạn , trong bài thơ “Ông đồ” (Vũ Đình Liên- SGK Ngữ văn 8- Tập 2) đã sử dụng phép tu từ nhân hóa rất thành công: “ Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu”. “giấy” và “mực” ,hai vật vốn vô tri vô giác vậy mà giờ đây cũng biết buồn bã, thảm sầu. Phải chăng chúng cũng biết đồng cảm, sẻ chia cùng chủ nhân là ông 10/25
File đính kèm:
- skkn_day_hoc_theo_dinh_huong_phat_trien_nang_luc_cua_hoc_sin.doc