SKKN Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong tiết ôn tập, tổng kết ở chương trình Ngữ văn 9

doc 20 trang sklop9 24/06/2024 1150
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong tiết ôn tập, tổng kết ở chương trình Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong tiết ôn tập, tổng kết ở chương trình Ngữ văn 9

SKKN Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong tiết ôn tập, tổng kết ở chương trình Ngữ văn 9
 Sáng kiến kinh nghiệm – Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy học trong 
tiết “Ôn tập – tổng kết” ở chương trình Ngữ văn 9 
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ : 
 Như chúng ta đã biết, trong các môn học ở nhà trường phổ thông, môn Ngữ 
văn là một môn học đặc biệt quan trọng . Trước hết, môn Ngữ văn là môn học 
thuộc nhóm khoa học xã hội có vai trò rất lớn trong việc giáo dục quan điểm, tư 
tưởng, tình cảm cho HS. Môn Ngữ văn còn là môn học thuộc nhóm công cụ có tác 
động tích cực đến việc học tập các môn học khác, là công cụ tư duy và diễn đạt để 
các em giao tiếp với mọi người trong cuộc sống hằng ngày, lại vừa là môn học có 
quan hệ khá mật thiết với các môn thuộc nhóm nghệ thuật góp phần hình thành các 
giá trị chân, thiện, mĩ trong cuộc sống con người. Vị trí đó, tự nó cũng toát lên yêu 
cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn với đời sống .
 Xuất phát từ vấn đề đó, việc đổi mới phương pháp dạy học là nhu cầu cấp 
thiết để nâng cao chất lượng giáo dục nhằm đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá đất nước, đáp ứng trình độ phổ thông của đất nước trên thế giới. Đổi 
mới phương pháp dạy học để tăng cường kĩ năng thực hành, tính thực tiễn, giúp 
HS tự tìm hiểu khám phá tri thức một cách năng động và sáng tạo .
 Thế nhưng trong thực tiễn dạy và học môn Ngữ văn còn gặp nhiều khó khăn 
và bất cập . Do đó chất lượng học tập môn Ngữ văn còn thấp, HS chưa thật sự 
hứng thú khi học tập. Để nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn nói riêng, chất 
lượng Giáo dục nói chung, đòi hỏi mỗi một giáo viên phải không ngừng nghiên 
cứu, vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học đối với từng khối lớp, từng đối 
tượng HS sao cho phù hợp .Điều đó phụ thuộc vào cách thức hoạt động, công việc 
tổ chức các hoạt động dạy học nhằm giúp HS chủ động, phát huy tính tích cực 
trong hoạt động học tập .
 Trong chương trình Ngữ văn, tôi nhận thấy để dạy –học có hiệu quả các tiết 
“Ôn tập - tổng kết” trong sách giáo khoa Ngữ văn THCS nói chung , ở lớp 9 nói 
riêng là một việc rất khó .Bởi ôn tập – tổng kết – kiểm tra - đánh giá là khâu hoàn 
thiện quá trình giáo dục. Kiểu bài Ôn tập – Tổng kết giúp HS rèn luyện kĩ năng hệ 
thống hoá kiến thức cơ bản trong từng phân môn . Vì thế nó đóng một vai trò rất 
quan trọng trong chương trình . Ở SGK chương trình THCS nói chung , chương 
trình Ngữ văn 9 nói riêng đã dành một số tiết đáng kể cho nội dung ôn tập –tổng 
kết .Hơn thế nữa, các tiết ôn tập – tổng kết ở chương trình Ngữ văn lớp 9 còn có 
tính chất củng cố kiến thức cả một cấp học .Giáo sư Nguyễn Khắc Phi –Tổng chủ 
biên SGK Ngữ văn THCS đã từng nhấn mạnh : “ Chương trình Ngữ văn 9 dành 
một thời lượng khá lớn cho các phần ôn tập, tổng kết, kiểm tra, không phải chỉ 
tổng kết những vấn đề riêng của lớp 9 mà của cả cấp học .Ở học kì I , về Tiếng 
Việt, số tiết ôn tập, tổng kết, và kiểm tra gần ngang với số tiết học bài mới . Ở 
học kì II , riêng phân môn văn học đã có 6 tiết tổng kết . Phối hợp một cách hợp 
Thái Thị Kim Thành – Trường THCS Hoàng Hoa Thám 1 Sáng kiến kinh nghiệm – Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy học trong 
tiết “Ôn tập – tổng kết” ở chương trình Ngữ văn 9 
 - Đây là dạng bài có tính chất khái quát tổng hợp nhằm củng cố kiến thức chứ 
 không phải là khám phá tri thức .
 2/ Tồn tại thực trạng:
 - Những bài ôn tập - tổng kết ở lớp 9 là dạng bài vừa ôn tập tổng kết cho nội 
 dung chương trình đang học vừa ôn tập tổng kết hệ thống hoá kiến thức cho 
 cả cấp học ,do vậy lượng kiến thức khá nhiều trong một tiết học . Vì thế nếu 
 không có sự chuẩn bị chu đáo về phía người dạy lẫn người học sẽ khó đảm 
 bảo yêu cầu cần đạt 
 - Khả năng tư duy khái quát tổng hợp và khả năng tiếp nhận hệ thống hoá kiến 
 thức ở HS không đồng đều, thời gian giữa tiết cung cấp kiến thức và tiết ôn 
 tập tổng kết lại quá xa, nên phần lớn HS ôn tập tổng kết kiến thức cũ còn lộn 
 xộn, không theo một hệ thống mạch lạc.
 - Tâm lí HS thường thích khám phá và cũng rất chủ quan . Vì thế tiết ôn tập - 
 tổng kết nếu GV không nhận thức đúng tầm quan trọng, tiết dạy dễ gây ra 
 sự nhàm chán HS tiếp nhận kiến thức một cách thụ động, không tạo dược sự 
 hứng thú, phát huy tính tích cực của HS.
 - Thực tế giảng dạy những tiết ôn tập - tổng kết thường rất nặng nề cả về 
 phía người học lẫn người dạy .
 Từ những thực trạng đó, để phát huy tính tích cực của HS, tôi đã thực hiện 
 “Môt số hình thức tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích 
 cực chủ động sáng tạo của học sinh trong tiết ôn tập –tổng kết ở 
 chương trình Ngữ văn 9”
 III / Các hình thức tổ chức hoạt động dạy và học trong tiết ôn tập –
 tổng kết ở chương trình Ngữ văn 9: 
 • 1/ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA BÀI CŨ :
 Thông thường trước mỗi giờ học,chúng ta thường tiến hành kiểm tra bài cũ . 
Đó là những kiến thức đã học ít nhiều có liên quan đến bài mới hoặc kiểm tra việc 
hiểu bài của HS để nắm được việc tiếp nhận kiến thức của HS hoặc qua đó để củng 
cố kiến thức cũ. Đôi khi song song với việc kiểm tra bài cũ, chúng ta còn kiểm tra 
việc làm bài tập ở nhà hoặc việc chuẩn bị bài mới của HS. 
 Trong tiết “ Ôn tập – Tổng kết” GV thường chỉ ra vài câu hỏi, gọi HS trả lời, 
hoặc kiểm tra việc chuẩn bị bài theo câu hỏi SGK vài em . Do lượng kiến thức 
phong phú đa dạng nên HS thường lo sợ .Đối với HS TB, Yếu, phần này thường 
trở nên nặng nề căng thẳng, thậm chí có em đã chuẩn bị bài ở nhà khá chu đáo 
nhưng đến khi được thầy cô kiểm tra thì trả lời ấp a ấp úng, trình bày kiến thức 
không rõ ràng.
Thái Thị Kim Thành – Trường THCS Hoàng Hoa Thám 3 Sáng kiến kinh nghiệm – Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy học trong 
tiết “Ôn tập – tổng kết” ở chương trình Ngữ văn 9 
 -HS giỏi: Xác định từ nhiều nghĩa và hiện tượng đồng âm của từ trong các câu 
 sau (ở bảng phụ) : Gạch một gạch dưới hiện tượng đồng âm và nêu lên cái hay 
 của việc sử dụng các từ đó trong câu văn câu thơ . 
 a- Nỗi mình thêm tức nỗi nhà 
 Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
 b- Ruồi đậu mâm xôi đậu, kiến bò đĩa thịt bò
 c- Mùa xuân là Tết trồng cây 
 Làm cho đất nước càng ngày càng xuân
 -HS khá : Phân biệt thành ngữ , tục ngữ ( Đánh dấu x vào các thành ngữ)
 Nêu tác dụng của việc sử dụng thành ngữ trong tác phẩm văn học. 
 a- Cá không ăn muối cá ươn
 b- Kiến bò miệmg chén
 c- Nuôi ong tay áo
 d- Uống nước nhớ nguồn
 e- Hồn lạc phách xiêu 
 -HS trung bình : Vẽ sơ đồ cấu tạo từ đơn từ phức 
 -HS yếu : Xác định từ đơn từ phức trong các câu sau :
 Buồn trông cửa bể chiều hôm
 Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
 Như vậy trong một thời gian ngắn, ta kiểm tra được 4 HS ở bốn mức độ 
 khác nhau, lại vừa kiểm tra nhiều mảng kiến thức vừa tích hợp với phần văn 
 học và tập làm văn 
 Ví dụ 2: Tiết 127 “ÔN TẬP VỀ THƠ ” 
 Tôi dùng tranh vẽ minh hoạ ở tiết học trước ( sau một tiết học văn tôi thường 
 cho các em vẽ tranh minh hoạ theo cách cảm cách hiểu của mình và chọn những 
 bức tranh đẹp có ấn tượng làm đồ dùng dạy học cho tiết học có liên quan ) để 
 gợi cho các em nhớ lại tên bài thơ, tác giả , câu thơ minh hoạ, đôi khi có kèm 
 theo lời bình. Ví dụ như : “- Bức tranh này minh hoạ cho bài thơ nào ? của tác 
 giả nào? (Câu hỏi dành cho HS TB, yếu) - Đọc câu thơ minh hoạ cho bức tranh 
 ? Em thử nói đôi lời bình về cái hay của những câu thơ minh hoạ và bức tranh 
 ấy ( câu hỏi dành cho HS khá giỏi) ”
 Với cách kiểm tra này , phần kiểm tra trở nên nhẹ nhàng, vừa tạo được sự 
 hứng thú, vừa tích hợp được với phân môn Tập làm văn vừa tích hợp được với 
 môn Mĩ thuật một cách hài hoà. 
 Ví dụ 3: Tiết 131 “ TỔNG KẾT PHẦN VĂN BẢN NHẬT DỤNG”
 Tôi dùng tranh ảnh minh hoạ để gợi nhớ lại các văn bản đã học ở các lớp trước .
Thái Thị Kim Thành – Trường THCS Hoàng Hoa Thám 5 Sáng kiến kinh nghiệm – Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy học trong 
tiết “Ôn tập – tổng kết” ở chương trình Ngữ văn 9 
 Mô hình Gráp câm
 Từ
 1 2
 3 4
 5 6 7 8
 Ví dụ: 
    .. 
 . ..  
Sau đó tôi tổ chức trò chơi nhỏ “ Ai nhanh hơn” .
Vòng 1 : Trò chơi dành cho HS trung bình và yếu . Mỗi tổ một HS điền 2 ví dụ 
dưới ô cuối cùng ( sau khi đã bốc xăm các số ô :5,6,7,8 và trong thời gian 1 phút) 
.Ai chính xác và nhanh hơn, mỗi VD đúng được 10 điểm. 
Vòng 2 : Trò chơi dành cho tất cả đối tượng HS. Mỗi tổ chọn 2 ô bất kì trong sơ 
đồ Gráp, thảo luận và nêu khái niệm của ô chữ đó trong vòng 1 phút, hết thời gian 
tổ khác có quyền trả lời, trả lời chính xác một khái niệm được 10 điểm . Tổ nào 
nhiều điểm hơn tổ đó thắng cuộc . 
 •Ở Hoạt động hệ thống hoá kiến thức về thành ngữ 
Thông thường GV hướng dẫn HS trả lời câu hỏi SGK để nắm vững khái niệm của 
thành ngữ , so sánh thành ngữ và tục ngữ và xác định thành ngữ , tục ngữ ở bài tập 
2 của SGK. Để tạo sự hứng thú , tích cực học tập của HS , ở bài tập 3 tôi tổ chức 
cuộc thi “ Người sưu tầm giỏi nhất” ( cuộc thi này đã được thông báo trong phần 
dặn dò ở tiết trước ) mỗi nhóm cử đại diện đọc những câu thành ngữ có yếu tố chỉ 
một loài động vật, sự vật, thực vật đã chọn ( trong thời gian 1 phút ), nhóm nào 
nhiều hơn, nhóm đó đạt danh hiệu “ Người sưu tầm giỏi ” . Nhóm nào tìm nhiều 
câu thành ngữ được sử dụng trong các tác phẩm đã học nhiều nhất, nhóm đó đạt 
danh hiệu “ Người sưu tầm giỏi nhất”
 •Ở hoạt động hệ thống hoá kiến thức về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa :
 Sau khi đã ôn tập những kiến thức cơ bản theo yêu cầu SGK, tôi tổ chức cho các 
tổ đố vui qua hình thức đối đáp tại chỗ trong thời gian 3 phút. Đối tượng tham gia 
là mọi HS .Nội dung câu đố là tìm từ trái nghĩa hoặc từ đồng nghĩa . Mỗi tổ được 
Thái Thị Kim Thành – Trường THCS Hoàng Hoa Thám 7 Sáng kiến kinh nghiệm – Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy học trong 
tiết “Ôn tập – tổng kết” ở chương trình Ngữ văn 9 
 Tôi sử dụng trò chơi giải ô chữ . Qua trò chơi này mục đích là giúp HS nhận thức 
rõ bản chất khái niệm văn bản nhật dụng. Đối tượng tham gia là tất cả HS, thế 
nhưng đối với câu hỏi dễ tôi thường ưu tiên cho HS trung bình , yếu để kích thích 
tinh thần học tập chủ động của các em, giúp các em tự tin hơn trong học tập .
 Cách thực hiện như sau : - Chia lớp thành tám nhóm theo nhóm học tập đã có .
 - Mỗi nhóm được quyền chọn và trả lời một hàng ngang (thời gian 1 phút)
 - Sau khi đã trả lời được ba hàng ngang các nhóm có quyền trả lời ô chữ chìa 
 khoá .
 - Trong thời gian 1 phút trả lời đúng một hàng ngang tổ đó sẽ được 10 điểm, 
 nếu không trả lời được các nhóm còn lại sẽ dành quyền trả lời, trả lời đúng 
 được 5 điểm , nếu không ai trả lời được , lúc đó GV sẽ gợi mở thêm để HS 
 trả lời, tất nhiên ô đó không được tính điểm cho đội nào.
 - Nhóm nào trả lời đúng ô chữ chìa khoá sẽ được 20 điểm .
 - Nhóm nào nhiều điểm nhất sẽ là đội chiến thắng .
 Trong cuộc chơi GV đóng vai trò vừa là trọng tài vừa là người dẫn chương 
trình sao cho đạt được những yêu cầu của bài học : Giúp HS trên cơ sở nhận thức 
tiêu chuẩn đầu tiên và chủ yếu của văn bản nhật dụng là tính cập nhật của nội 
dung, hệ thống hoá được chủ đề của các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ 
văn THCS .Nắm được một số đặc điểm cần lưu ý trong cách thức tiếp cận văn bản 
nhật dụng .
Ô chữ đã được chuẩn bị trước ở (bảng phụ) 
 Một số câu hỏi giải ô chữ như:
1 – Điền từ vào chỗ trống trong câu sau : “Khái niệm văn bản nhật dụng không 
phải là khái niệm” ( Gồm 7 chữ cái) 
 Đáp án : Thể loại - Chữ chìa khoá: ( T )
2 – Đây là từ dùng để chỉ tính chất của đề tài văn bản nhật dụng ( gồm 8 chữ cái) 
 Đáp án : Phong phú - Chữ chìa khoá: ( H )
3 – Đây là đặc điểm nổi bật của văn bản nhật dụng ( gồm 11 chữ cái) 
 Đáp án : Tính cập nhật - Chữ chìa khoá: ( Â )
4 – Một trong những chức năng của văn bản nhật dụng ( gồm 7 chữ cái )
 Đáp án : Bình luận - Chữ chìa khoá: ( N )
5 – Ngoài tính cập nhật ra văn bản còn có tính này nữa ( gồm 6 chữ cái )
 Đáp án : Lâu dài - Chữ chìa khoá: ( U )
6 – Điền từ vào chỗ trống trong câu sau : “ Văn bản nhật dụng có 
thểmọi thể loại, mọi kiểu văn bản” (gồm 6 chữ cái)
 Đáp án : Sử dụng - Chữ chìa khoá: ( D )
7 - Đây là thể loại của văn bản nhật dụng “ Mẹ tôi” ( gồm 10 chữ cái )
 Đáp án : Truyện ngắn - Chữ chìa khoá: ( G )
Thái Thị Kim Thành – Trường THCS Hoàng Hoa Thám 9

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_hinh_thuc_to_chuc_hoat_dong_day_hoc_nham_phat_hu.doc