SKKN Vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với bộ môn Ngữ văn 9

pdf 11 trang sklop9 27/06/2024 960
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với bộ môn Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với bộ môn Ngữ văn 9

SKKN Vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với bộ môn Ngữ văn 9
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
 VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP 
 GIẢNG DẠY TÍCH HỢP 
ĐỐI VỚI BỘ MÔN NGỮ VĂN 9 từ thực tiễn giáo dục của Việt Nam. Việc tách môn văn thành 3 phân môn trên 
20 năm qua tuy đưa lại một số kinh nghiệm nhất định song đã ngày càng bộc lộ 
nhiều nhược điểm, đặc biệt ở bậc THCS. Hướng phấn đấu bao quát cua việc 
thực hiện chương trình môn Ngữ văn theo tinh thần tích hợp là làm sao kết hợp 
được thật tốt việc hình thành 4 kĩ năng: Nghe, nói, viết. Chương trình viết 
không nhằm mục đích riêng cho từng phân môn mà chỉ viết mục tiêu chung cho 
môn Ngữ văn chính là vì thế. Để giải quyết một điểm nào đó trong yêu cầu của 
chương trình đều phải có sự đóng góp hợp lực của cả 3 phân môn. không nên 
quan diểm “Tích hợp là phương pháp dùng để rút bớt môn học hoặc biện pháp 
nhằm giảm tải” dẫu rằng đó là những hệ quả có thể xảy ra do việc thực hiện 
phương hướng “Tích hợp”. Trên nền giáo dục hiện đại, tích hợp là phương pháp 
nhằm phối hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ các môn học. 
Phân môn khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích và yêu cầu cụ 
thể khác nhau. 
 Tích hợp được xem là nguyên tắc tổng hợp của việc xây dựng cả hệ thống 
chương trình. Dạy tích hợp, người đứng lớp phải biết thực hiện mọi yêu cầu một 
cách linh hoạt, sáng tạo mà mấu chốt của sự sáng tạo là luôn suy nghĩ và mục 
tiêu của bộ môn Ngữ văn nói chung để tìm ra những yếu tố đồng quy giữa 3 
phần phân môn, tích hợp trong từng thời điểm theo từng vấn đề. Quan điểm tích 
hợp phải quán triệt trong mọi khâu kể cả khâu đánh giá. Có thể có những bài tập 
riêng cho từng phân môn, song chúng ta cần đánh giá cao những học sinh biết 
sử dụng những kiến thức của phân môn khác. Đó chính là những thói quen, cơ 
sở ban đầu để sau này học lên, các em sẽ có điều kiện tiếp thu và vân dụng dễ 
dàng hơn phương pháp nghiên cứu nghiên ngành, cũng như khi vào đời, các em 
có khả năng giải quyết dễ dàng hơn các vấn đề thực tiễn vì mọi tình huống xảy 
ra trong cuộc sống bao giờ cũng là tình huống tích hợp. Tích hợp phải phát huy 
tối đa tính tích cực, tính sáng tạo của học sinh, chủ thể học tập ở tất cả mọi 
khâu: từ việc chuẩn bị bài, sưu tập tư liệu trong tổ, nhóm, tự đáng giá và đánh 
giá bạn, tham gia, hoạt động thực tiễn theo quan điểm đặc trưng bộ môn. 
 Xuất phát từ việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính 
tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh nên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “ 
Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với Ngữ văn 9”. 
II. Mục đích nghiên cứu: 
 Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn 9 nhằm phát huy tính tích 
cực, chủ động sáng tạo cho học sinh. 
III. Nhiệm vụ của đề tài: 
 Giảng dạy tích hợp đối với Ngữ văn 9 là một trong những nhiệm vụ trọng 
tâm đối với chương trình và sách giáo khoa lần này là: Đổi mới phương pháp 
dạy và học. Trong chương trình Ngữ văn THCS tích hợp 3 phân môn: Văn - Phải phát huy tối đa tính tích hợp chủ động sáng tạo của học sinh. Vì học 
sinh là chủ thể học tập trong mọi khâu: Từ việc chuẩn bị bài, sưu tập tài liệu, 
phát biêu trong tổ, nhóm, đánh giá mình, đánh giá bạn 
 Đổi mới việc giảng dạy tích hợp Ngữ văn 9: Tích hợp theo chiều dọc là tích 
hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng mới, những kiến thức và kĩ năng đã học 
trước đó theo nguyên tắc đồng trục ( còn gọi là vòng tròn đồng tâm) hay vòng 
tròn xoáy trôn ốc. Cụ thể là kiến thức và kĩ năng hình thành ở bài học, lớp học 
bâvj học sau bao hàm kiến thức, kĩ năng, bậc học trước nhưng cao hơn, sâu hơn 
trước. 
 Tích hợp theo chiều dọc là dựa trên nguyên tắc đồng trục càng nên cao thì 
yêu cầu nội dung càng cao, kiến thức lớp trên, bậc trên cao hơn kiến thức bậc 
dưới, lớp dưới. 
 Tích hợp theo chiều ngang: Tích hợp kiến thức Tiếng Việt với các mảng 
kiến thức về Văn học và Tập làm văn. 
 Việc lựa chọn nội dung: Ngữ văn 9 chọn các kiểu thành phần câu như: 
Thành phần biệt lập, khối ngữ nghĩa tường minh, hàm ý  phục vụ cho việc 
tạo lập các văn bản nghị luận. 
 Việc sắp xếp nội dung: Bộ sách giáo khoa Ngữ văn THCS chú ý sắp xếp nội 
dung theo kiểu xen kẽ các vấn đề về từ, về câu và tạo lập văn bản. Sự liên kết 
theo chiều ngang với Văn học và Tập làm văn hơn là hệ thống kiến thức “Hàn 
lâm” ngôn ngữ học. 
 Việc khai thác nội dung: Phần Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn tận dụng mọi 
cơ hội có thể có để phục vụ việc học Văn bản và Tập làm văn. 
2. Cơ sở pháp lí: 
 Ngày 9/12/2000 quốc hội đã có nghị quyết số 40/2000 QH 10 về đổi mới 
chương trình về giáo dục phổ thông. Báo cáo BCH TW Đảng khoá VIII tại đại 
hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng về phát triển kinh tế - hội năm 2001 - 
2010 đã nêu rõ việc “Khẩn trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong 
cả nước bộ chương trình sách giáo khoa phổ thông phù hợp với yêu cầu phát 
triển mới”. Mục tiêu của việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa là: Nâng 
cao chất lượng giáo dục toàn diện tăng cường bồi dưỡng cho thế hệ trẻ lòng yêu 
nước, yêu quê hương và gia đình, tinh thần tự tôn dân tộc, lý tưởng XHCN, tinh 
thần hiếu học, chí tiến thủ, lập thân lập nghiệp, lòng nhân ái, ý thức kỉ luật, tôn 
trọng pháp luật. Đổi mơidss phương pháp dạy học là phát huy tư duy sáng tạo 
và tự học của học sinh. Một trong những phương pháp dạy học là phương pháp 
dạy tích hợp. *, Ví dụ: - Bàn về đọc sách (bài 18 - Ngữ văn 9). 
 - Tiếng Việt: Khối ngữ 
 - Tập làm văn: Phép phân tích và tổng hợp luyện tập phép phân tích 
tổng hợp. 
 Điểm đồng quy của 3 phân môn này: 
 Văn bản “là một văn bản nghị luận. Văn bản này đưa ra đẻ làm mẫu cho học 
sinh học tập cách làm văn nghị luận. Trong văn bản có nhiều nhiều câu văn 
chứa khởi ngữ. Còn về Tập làm văn, khi dạy bài phép phép phân tích tổng hợp, 
giáo viên đưa ngay văn bản “Bài về đọc sách” để phân tích mẫu về văn nghị 
luận. Như vậy văn bản “Bài về đọc sách” sẽ được soi sáng ở cả 3 góc độ của 3 
phân môn và các phân môn đó đều có mối quan hệ với nhau. 
*, Thao tác 3: Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp. 
 Dựa trên thao tác 1, giáo viên bắt đầu thiết kế bài dạy và hệ thống câu hỏi. 
Trong SGK câu hỏi có tính chất định hướng, hướng dẫn học sinh tìm hiểu 
những kiến thức và kĩ năng cơ bản trong bài học. Câu hỏi cũng rất đa dạng: Câu 
hỏi nêu vấn đề, câu hỏi hướng dẫn hoạt động, câu hỏi gợi mở, câu hỏi thảo 
luận Nhưng đó chỉ là nmhwngx câu hỏi có tính chất “tĩnh” còn câu hỏi trong 
mỗi giờ học “động” mang đậm dấu ấn cá nhân của giáo viên trong nhận thức 
cũng như truyền tải nội dung bài học đến với học sinh. 
 Câu hỏi tích hợp được xây dựng trên cơ sở: 
 Căn cứ vào điểm đồng quy giữa 3 phân môn, khi dạy phần văn học giáo 
viên có nhiệm vụ hé mở những nội dung nào đó của Tiếng Việt và Tập làm văn 
để học sinh chuẩn bị tâm thế tốt cho bài học. 
 Lưu ý các chú thích ở Văn bản của mỗi thể loại học sinh nắm vững và nhớ 
đặc điểm của từng thể loại. Ngoài ra còn lưu ý đến các chú thích khác để hiểu 
văn bản. Đồng thời hiểu nghĩa của các từ (cấu tạo từ, nghĩa của từ, các từ loại, 
các thành phần câu) sẽ được học ở phần Tiếng Việt. 
 *, Ví dụ: Bài 20 (Ngữ văn 9) 
 - Văn bản: Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới. 
 - Tiếng Việt: Các thành phần biệt lập (Tiếp). 
 - Tập làm văn: + Bài viết số 5: Văn nghị luận. 
 + Nghị luận một vấn đề tư tưởng, đạo lý. 
 a, Khi dạy văn bản “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” giáo viên cần khai 
thác nội dung bằng cách xây dựng những câu hỏi tích hợp sau: 
 Hỏi: Em hãy xác định thể loại và phương thức biểu đạt cho văn bản ? 
 Hỏi: Vấn đề nêu ra trong bài nghị luận này là gì ? 
 Hỏi: Vấn đề này được trình bày bằng hệ thống luận cứ ? 
 Hỏi: Em có nhận xét gì về cách xây dựng hệ thống luận cứ và cách lập luận 
của bài văn ? Hỏi: Em hãy tóm tắt cốt truyện ? 
 Hỏi: Truyện được xây dựng dựa trên những tình tiết nào ? 
 Như vậy: Phần văn bản đã đưa ra một số câu hỏi để hướng học sinh 
 khai thác nội dung bài học có liên quan đến phần Tập làm văn. 
 Phần Tiếng Việt: “Cách dẫn trực tiếp và gián tiếp” 
Khi dạy bài này giáo viên lấy ví dụ là 1 đoạn văn bản được trích trong văn bản 
“Chuyện người con gái Nam Xương”. Ta có thể chọn đoạn văn trích dẫn lời 
trực tiếp, đó là lời của Vũ nương khu than khóc với chồng bị oan: “ Thiếp vốn 
con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thoả tình chăn gối, chia 
phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt 3 năm giữ gìn một tiết.” 
 Giáo viên có thể đặt câu hỏi: 
 Hỏi: Đoạn văn có trong văn bản nào ? 
 Hỏi: Đoạn văn trích đãn lời nói của ai ? 
 Hỏi: Lời trích dẫn đó là lời trích dẫn trực tiếp hay gián tiếp ? 
 Phần Tập làm văn: “ Luyện tập tóm tăt văn bản tự sự”. 
Giáo viên có thể lấy ví dụ trực tiếp ngay trong cụm bài là văn bản “Chuyện 
người con gái Nam Xương”. 
 Hỏi : Em hãy tóm tắt văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” ? 
Giáo viên nói lên các sự việc và nhân vật chính sau: 
 - Chàng Trương Sinh pải đầu quân đi lính, để lại mẹ già và người vợ trẻ là 
Vũ Thị Thiết. 
 - Mẹ Trương Sinh ốm chết, Vũ Nương lo toan ma chay cho mẹ. 
 - Giặc tan, Trương sinh trở về, nghe lời con nhỏ, nghi oan cho vợ. 
 - Vũ Nương bị oan, gieo mình xuống sông Hoàng Giang. 
 - Phan Lang là người cùng làng với Vũ Nương đã gặp lại Vũ Nương trong 
động Linh Phi, hai người nhận ra nhau. Phan Lang trở về trần gian, Vũ Nương 
gửi chiếc bông tai vàng cho chồng cùng lời nhắn. 
 - Trương Sinh lập đàn giải oan 
 Hỏi: Các sự việc trên đã được nêu đầy đủ chưa? 
 Hỏi: Các sự việc trên sắp xếp đã hợp lí chưa ? 
 Hỏi: Dựa vào các sự việc trên em hãy tóm tắt truyện ? 
 Như vậy: Trong cụm bài 4, cả 3 phân môn đều có kiến thức tích hợp liên 
quan đến nhau. Khi khai thác giáo viên cần hướng học sinh chú ý đến những 
kiến thức tích hợp này để học sinh nắm vững, sâu kiến thức cần ghi nhớ. 
 Giáo viên kết luận: Vởy ta có thể nói rằng tích hợp được thể hiện trong 
mọi khâu: 
 - Kiểm tra bài cũ. 
 - Quá trình soạn bài, giảng bài. 
 - Đánh giá kiểm tra bài cũ, tiếp nhận kiến thức mới. 
 PHẦN THỨ BA 
 Kết luận và khuyến nghị 
 Để thực hiện tốt tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo phương pháp 
tích hợp mà cốt yếu là tính thực hành thì hệ thống cân hỏi phải gắn kết dược 
kiến thức cả 3 phân môn cho dù không thủ tiêu bản sắc của cả 3 phân môn. 
Quan trọng hơn cả là lấy yêu cầu bài học làm mục đích thiết kế hệ thống câu hỏi 
với những kiến thức cần đạt được thể hiện quan điểm thực hành tích hợp của 
chương trình Ngữ văn 9. Dạy học theo nguyên tắc tích hợp ở Ngữ văn 9 có một 
sự liên hệ chặt chẽ với những kiến thức ở bậc Tiểu học, từ thực tế giảnge dạy tôi 
thấy việc tiếp thu kiến thức là khả năng thực hành của học sinh khi học THCS 
còn nhiều hạn chế. Do vậy khi đưa những câu hỏi tích hợp còn có một số học 
sinh thực hiện chưa tốt, có sự bỡ ngỡ hoặc không thực hiện được. Do vậy chúng 
tôi đề nghị sự chỉ đạo đồng bộ trong việc thực hiện chương trình thay sách, các 
cụm bài. Việc lồng ghép kiến thức tích hợp cần rõ hơn và học sinh thực hiện 
phương pháp tích hợp tốt hơn. 
 Trên đây là một só vấn đề về phương pháp giảng dạy tích, tôi nghĩ rằng: 
Chương trình sách giáo khoa mới với việc chuẩn bị giáo án để có thể tổ chức 
một chương trình Ngữ Văn theo tinh thần đã nêu ở trên. Đó là một việc làm rất 
mới mẻ, cần thiết của một giáo viên giảng dạy trêm lớp. Công việc thực hiện 
phương pháp này gặp không ít những khó khăn, thử thách. 
 Qua bài viết này tôi xin được mạnh dạn trao đổi ý kiến của mình và mong 
được sự góp ý để tích luỹ cho mình nhiều bài học quý báu trong công tác giảng 
dạy hơn 
nưã..........................................................................................................................
................................................................................................................................
...................................................... 
 Tôi xin chân thành cảm ơn ! 
CÓ ĐẦY ĐỦ CHI TIẾT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGỮ VĂN THCS 
THEO CHUẨN KIẾN THỨC NĂM 2011-2012 
LIÊN HỆ ĐT 01689218668...............................................CÒN NỮA ........ 

File đính kèm:

  • pdfskkn_van_de_ve_phuong_phap_giang_day_tich_hop_doi_voi_bo_mon.pdf